Chuyển đến nội dung chính

DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN - Chương II - MỘT SỐ HỌC THUYẾT Y HỌC CỔ TRUYỀN - HỌC THUYẾT THỦY HỎA


DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN - Chương II - MỘT SỐ HỌC THUYẾT Y HỌC CỔ TRUYỀN - HỌC THUYẾT THỦY HỎA


I. XUẤT XỨ
Học thuyết thủy hỏa hay còn gọi là học thuyết tâm thận do đại danh y Hải Thượng Lãn Ông của Việt Nam thế kỷ 18 dựa trên “Dịch lý về thủy hỏa”, trên cơ sở giáng tâm hỏa, ích thận thủy. Lấy phương châm điều hoà thủy hoả, cân bằng âm dương trong cơ thể để xây dựng nên. Hải Thượng Lãn Ông đã dùng hai phương thuốc cổ: Lục vị để bổ âm, bổ thận âm bổ thuỷ, Bát vị để bổ thận dương, bổ hoả làm gốc; đồng thời thông qua phép biến phương để từ hai phương thuốc này xây dựng nên nhiều phương khác, dùng điều trị cho trên 50 chứng bệnh khác nhau. Như vậy Hải Thượng là người đã hoàn thiện học thuyết thủy hoả trên phương diện vận dụng vào điều trị học của y học cổ truyền.

II. CƠ SỞ CỦA HỌC THUYẾT THỦY HỎA
- Học thuyết thủy hoả được xây dựng trên cơ sở của học thuyết âm dương ngũ hànhtạng tượng của y học cổ truyền. Vận dụng thuỷ hoả trong âm dương, thuỷ thuộc nước thuộc âm, hoả thuộc lửa thuộc dương. Với thuyết ngũ hành thuỷ hoả là hai hành tương khắc; với thuyết tạng tượng, tâm, thận là hai tạng trong ngũ tạng. Ta biết rằng thuỷ hoả thuộc hai phạm trù mang tính đối lập, tồn tại khách quan trong thiên nhiên.
- Thuỷ là nước tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau: nước biển, nước ngọt, nước mưa; dưới nhiều thể khác nhau tuyết, mây mù... Tồn tại trong các sinh vật, động vật, cây cỏ, tính của thuỷ luôn giáng và thấm xuống.

- Hoả là lửa cũng được tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau; lớn nhất là sức nóng của mặt trời, núi lửa, sấm chớp và lửa dùng trong cuộc sống hằng ngày. Tính của hoả luôn thăng và bốc lên.

2.1. Sự giao nhau của thủy hoả
Sự giao nhau của thuỷ hoả thường xuyên diễn ra trong cuộc sống. Sức nóng của mặt trời làm hơi nước bốc lên thành mây, mưa. Nước lại tưới cho cây cỏ, nuôi dưỡng động vật và con người. Ánh sáng của mặt trời là nguồn gốc tạo ra quá trình sống của muôn vật. Nước nuôi sống muôn loài. Hai thứ đó luôn luôn có mối quan hệ hữu cơ. Thiếu một trong hai thứ đó thì sự sống sẽ không còn tồn tại. Do đó sự giao hoà giữa thuỷ và hoả bao trùm lên mọi hoạt động của sinh vật và con người. Người ta quan niệm rằng ánh sáng mặt trời (hoả) nuôi sống muôn vật gọi là ôn dưỡng, nước (thuỷ) nuôi sống vạn vật gọi là nhu dưỡng. Ôn dưỡng và nhu dưỡng luôn giao hoà và luôn ở trạng thái cân bằng tương đối.

2.2. Thuỷ hoả trong con người
Trong cơ thể con người, phần dương khí tạo ra sự ôn dưỡng, còn âm huyết tạo ra sự nhu dưỡng. Hai thứ đó luôn tồn tại hỗ căn. Đó là sự thể hiện của âm dương là thực thể của thuỷ hoả giao nhau.

III. NỘI DUNG CỦA HỌC THUYẾT THUỶ HOẢ
Lấy cân bằng thuỷ hoả của hai tạng tâm-thận trong cơ thể làm gốc. Coi hoả là dương khí thuỷ là âm tinh, dựa trên nguyên tắc giáng tâm hoả, ích thận thuỷ. Cơ thể con người được coi là vũ trụ nhỏ, con người và muôn vật muốn tồn tại phải có hoả. Cái hoả trong con người trước hết thuộc tạng tâm (quân hoả) hoả do công năng của tâm sinh ra “Tâm là quân chủ chi quan, thần minh xuất yên”. Hoả của tâm được cân bằng với tâm huyết (phần âm của tâm) hoả thứ hai do tạng thận sinh ra (tướng hoả, mệnh môn hoả, thận dương) và chính hoả này lại được cân bằng với thuỷ của thận (thận nằm trong hành thuỷ ngũ hành) trong cơ thể thứ hoả ở trên là hoả của tâm có công năng chủ thần minh; thứ hoả ở dưới, hoả của thận có công năng chủ sinh thành. Như vậy tâm hoả tác động vào thận thuỷ mới có sáng suốt, minh mẫn được. Thần minh sinh ra từ tinh khí của thận (thận tàng chí) song lại quy nạp vào tâm (tâm tàng thần). Hai tạng này có quan hệ rất mật thiết với nhau; đặc biệt về mối quan hệ thuỷ hoả. Do đó lấy cân bằng thuỷ hoả của hai tạng tâm thận làm gốc là có tầm quan trọng như vậy.

IV. VẬN DỤNG CỦA THUYẾT THUỶ HOẢ

4.1. Điều trị:
Bệnh tật trong con người phát sinh là do thuỷ hoả thiên lệch, âm dương mất cân bằng. Chính vì lẽ đó việc điều trị bệnh là lấy lại sự thăng bằng của thuỷ hoả.
Hải Thượng cho rằng: chữa bệnh nặng không biết đến thuỷ hoả, chữa bệnh nhẹ không biết đến khí huyết thì cũng như “trèo cây tìm cá”
Ông còn cho rằng “tính của hoả thời bốc lên, thời phải bắt cho nó đi xuống, tính của thuỷ thấm xuống nên khiến cho nó đi lên, thuỷ lên hoả xuống gọi là giao nhau”. Vì dụ người chân dương thịnh thì phải bổ âm, người chân âm thịnh thì phải bổ dương; tuy vậy khi bổ âm phải kèm theo vị bổ dương để không ảnh hưởng đến tỳ vị. Thông thường để bổ âm, Hải Thượng khuyên dùng phương lục vị; còn để bổ nguyên khí cũng có chân hoả của thận thì dùng phương bát vị. Còn người âm dương đều hư thì ông khuyên dùng phương thập toàn đại bổ.

4.2. Vận dụng phép biến phương vào hai phương lục vị và bát vị
4.2.1. Phương thuốc bổ thuỷ (bổ thận âm):
Trên cơ sở bài lục vị một bài thuốc cổ phương do Trương Trọng Cảnh danh y đời nhà Hán xây dựng.
- Thành phần:
Thục địa 8 lạng, phục linh 3 lạng, sơn thù du 4 lạng, trạch tả 3 lạng, hoài sơn 4 lạng, đơn bì 3 lạng luyện mật ong làm hoàn. Ngày uống 8-16g
Công dụng tư bổ thận âm của can thận, chữa âm suy kém tinh khô, huyết kiệt, đau lưng, mỏi gối hoa mắt ù tai, tiêu khát.
Đây là bài thuốc dựa trên nguyên tắc tam bổ, tam tả. Ba vị bổ thục địa (bổ thận âm), sơn thù du (bổ can), hoài sơn (bổ tỳ) kèm với 3 vị tả phục linh, trạch tả, đơn bì. Ba vị tả được xếp sánh đôi với 3 vị bổ với mục đích để bổ mà không bị trệ.
Ví dụ thục địa với trạch tả để bổ thận mà không gây trệ phù ở thận; sơn thù với đơn bì để bổ can mà không trệ can, hoài sơn với bạch linh để bổ tỳ mà không trệ tỳ.
- Lục vị gia giảm:
Trên cơ sở phương lục vị. Hải Thượng đã gia giảm để xây dựng nên các phương thuốc khác
- Kỷ cúc địa hoàng hoàn: Lục vị gia cúc hoa, kỷ tử mỗi thứ 3 lạng.
+ Công năng: tư âm tiềm dương.
+ Chủ trị: thận âm hư, hoa mắt giảm thị lực.
- Minh mục địa hoàng hoàn: Lục vị gia đương quy, bạch thược, kỷ tử, cúc hoa, thanh quyết minh, bạch tật lê.
+ Công năng: tư bổ, can thận, minh mục.
+ Chủ trị: mắt khô, quáng gà, giảm thị lực, cao huyết áp.
- Thất vị địa hoàng hoàn: Lục vị gia nhục quế.
+ Công năng: bổ thận âm, trừ hư hoả.
+ Chủ trị: sốt khát nước, miệng khô lưỡi đỏ, miệng hôi, họng đau và mồ hôi trộm.
- Thất vị đô khí hoàn: Lục vị gia ngũ vị tử.
+ Công năng: liễm phế, nạp thận.
+ Chủ trị: hư lao.
- Bát tiên trường thọ hoàn: Lục vị gia ngũ vị, mạch môn.
+ Công năng: bổ phế thận.
+ Chủ trị: thận âm hư, khó thở.
- Thanh tâm bổ thận hoàn: Lục vị bỏ trạch tả gia ngũ vị, mạch môn, liên nhục, viễn chí.
+ Công năng: bổ thận, thanh tâm.
+ Chủ trị: tâm hư, kém ngủ, thận yếu và rất nhiều các bài khác cũng được biến phương tương tự để có: tư thận sinh can ẩm, ức âm địa hoàng hoàn, agiao địa hoàng hoàn, tư kim tráng thủy hoàn.

4.2.2. Phương thuốc bổ hoả:
Từ bài cổ phương bát vị hoàn của Trương Trọng Cảnh. Hải Thượng đã gia giảm để xây dựng nên các phương thuốc khác.
- Bát vị hoàn:
+ Thục địa 8 lạng.
+ Sơn thù du 4 lạng.
+ Hoài sơn 4 lạng.
+ Phục linh 3 lạng.
+ Trạch tả 3 lạng.
+ Đan bì 3 lạng.
+ Phụ tử 1 lạng.
+ Nhục quế 1 lạng.
Các vị luyện mật ong làm hoàn ngày uống 12-16g.
+ Công năng: bổ thận dương.
+ Chủ trị: trị chứng mệnh môn suy người gầy lưng gối đau lạnh tiểu không lợi hoặc không kiềm chế được. Tiểu đêm nhiều lần.
- Kim quy thận khí hoàn: Bát vị hoàn, dùng quế chi thay nhục quế.
+ Công năng: lợi niệu, tiêu phù, hoạt huyết.
+ Chủ trị: phù do thận, khí huyết ứ trệ.
- Tế sinh thận khí hoàn: Bát vị hoàn gia ngưu tất, sa tiền.
+ Công năng: ôn dương lợi thuỷ.
+ Chủ trị: thuỷ thũng, phù nề, bụng đầy trướng.
- Tư âm bát vị hoàn: Bát vị gia mạch môn, ngũ vị.
+ Công năng: bổ thận, bổ phế.
+ Chủ trị: phế hư, thận kém.
- Bát vị ngô thù hoàn: Bát vị gia ngô thù du, phá cố chỉ.
+ Công năng: bổ thận.
+ Chủ trị: thận hư, đau thắt ngực sườn.
Ngoài ra cũng dùng cách biến phương tinh thông như vậy, Hải Thượng đã tạo ra nhiều phương khác như cố bản thận bổ hoàn, tráng dương cố bản hoàn, nhị diệu địa hoàng hoàn.

V. VÀI NÉT NHẬN XÉT VỀ THUYẾT THUỶ HOẢ
Học thuyết thuỷ hoả mang tính sáng tạo, đã vận dụng các nguyên lý cơ bản của các học thuyết triết học phương đông để xây dựng nên, nó góp phần xây dựng về mặt lý luận cho y học cổ truyền Việt Nam, có ý nghĩa lớn về thực tiễn nhất là về mặt điều trị đã tạo ra các phương thuốc mới để giải quyết nhiều chứng bệnh khác nhau. Có thể nói rằng với học thuyết thuỷ hoả, Hải Thượng Lãn Ông đã góp phần làm phong phú thêm về mặt lý luận và thực tiễn cho y học cổ truyền Việt Nam.



Nhận xét

BÀI ĐĂNG ĐƯỢC XEM NHIỀU

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây  lá giấp ,  ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cá là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học  Ageratum conyzoides L. Thuộc họ  Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên. Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng s...

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.