Chuyển đến nội dung chính

NHỮNG VỊ THUỐC QUANH TA - VỊ THUỐC TỪ CÁC LOÀI HOA

NHỮNG VỊ THUỐC QUANH TA - VỊ THUỐC TỪ CÁC LOÀI HOA

I. VỊ THUỐC TỪ CÁC LOÀI HOA
Thế giới của các loài hoa rất phong phú và đa đạng, với vẻ đẹp quyến rũ và hương thơm hấp dẫn, hoa đem tươi vui đến cho mọi nhà và làm đẹp cho cuộc sống. Thế nhưng ít ai biết rằng, một số loài hoa còn được dùng làm thực phẩm và là vị thuốc quý có tác dụng phòng và chữa bệnh rất công hiệu.


a. Thành phần và tác dụng
Hoa hồng được tôn làm sứ giả của tình yêu nhờ vẻ đẹp thanh tú của nó. Hoa hồng có nhiều cánh, nhiều màu sắc như trắng, hồng, đỏ, vàng, hương thơm dịu và kín đáo.
Trong hoa hồng chứa nhiều tinh dầu và đây là thành phần chữa bệnh chủ yếu. Nó kích thích và điều hoà hệ thần kinh của con người, đồng thời gia tăng hoạt động của các tuyến nội tiết, xoá bỏ những rối loạn phức tạp trong các cơ quan của cơ thể và tái tạo tế bào.
Cánh hoa hồng có chứa canxi - tác động đến quá trình trao đổi chất và tiêu hoá thức ăn; kali - thành phần vô cùng quan trọng đối với hoạt động của tim; đồng (cu) - cải thiện tình hình hoạt động của các tuyến nội tiết, chữa trị mụn nhọt, dị ứng. Hoa hồng còn là vị thuốc chữa ho rất tốt cho trẻ em. Hồng đỏ có tác dụng cầm máu, phối hợp với mật ong chữa rộp lưỡi, lở loét miệng...

b. Bài thuốc phối hợp
- Chữa ho trẻ em: Lấy cánh hoa hồng trắng tươi trộn hoặc không trộn với nước quất và 1/2 thìa nhỏ mật ong đem chưng cách thuỷ cho trẻ uống.
- Chữa hôi miệng: Hoa hồng 5g, hãm nước sôi để nguội ngậm, súc, rồi nhổ. Hoặc rửa sạch hoa hồng 5g nhai ngậm rồi nhổ.
- Chữa viêm sưng tuyến vú: Hoa hồng 7 bông, đinh hương 7 nụ, cho cả 2 vào nồi cùng một lượng rượu vừa đủ. Nấu lên rồi uống nước, bỏ cái. Uống lúc no.
Hoặc: Hoa hồng 30 bông (bỏ nhụy, cuống) phơi trong bóng râm, cho vào một lượng rượu vừa đủ, nấu sôi chắt lấy nước uống hơi nóng, uống lúc no. Dùng sớm sẽ có công hiệu rõ hơn.
- Chữa chán ăn: Lấy một nắm to cánh hoa hồng đỏ, một nắm hoa cúc khô ngâm vào 2 lít nước sôi trong 25 phút rồi đem lọc lấy nước pha đường vừa đủ làm nước uống hoặc chế thành xirô đựng trong chai để chỗ râm mát, uống dần. Chú ý dùng hoa hồng đỏ tốt hơn hồng trắng.
- Kinh nguyệt không đều: Hoa hồng 5g, hoa quế 3g, rượu 50ml. Chưng cách thuỷ hay hấp cơm, để nguội uống.
Hoặc: Hoa hồng tươi 30 bông (bổ nhuy, cuống), đường phèn 500g. Cho vào 1 lít nước sắc 3 lần (như sắc thuốc) rồi dồn 3 nước lại còn 500ml cho đường phèn khuấy cho tan đều, cô thành cao, để nguội cho vào bình đậy kín, bảo quản cẩn thận dùng dần. Mỗi lần dùng 2 - 3 thìa canh. Ngày 3 lần với nước ấm.
- Rong kinh, băng huyết: Ngâm 20 cánh hoa hồng trong 1 lít nước sôi trong 30 phút. Khi nước ngả màu đỏ thì cho thêm 50g đường, làm nước uống. Mỗi lần 200ml.
- Kỳ kinh không đều (sớm hoặc muộn): Cánh hoa hồng 6 - 7g. Hãm nước sôi uống thay trà.


a. Thành phần và tác dụng
Hoa đào được trồng ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam, chủ yếu ở Lào Cai, Lạng Sơn, đào cảnh được trồng ở Hà Nội, Lâm Đồng. Hoa đào dùng làm thuốc thông tiểu tiện, kem dưỡng da.
Hoa đào tuy không thơm như nhiều thứ hoa khác nhưng người ta yêu thích nó vì màu hồng phai dịu dàng, màu đỏ tươi thắm làm vui cửa vui nhà trong những ngày xuân. Màu đỏ được coi là tượng trưng cho sự vui vẻ, may mắn, là biểu tượng cho mọi điều tốt lành... Cành đào nở đúng vào ngày đầu năm, sẽ là dấu hiệu một năm có nhiều may mắn và hạnh phúc. Ngoài tác dụng làm đẹp cho cuộc sống, hoa đào còn là vị thuốc quý.
Theo Đông y hoa đào tính bình, vị đắng, có tác dụng lợi thuỷ (thông tiểu tiện), hoạt huyết và nhuận tràng. Sách “Bản thảo cương mục” của Lý Thời Trân viết: Hoa đào có tính đi xuống, thông đại tiện rất nhanh, có tác dụng tiêu tích trệ, toàn thân phù thũng. Hoa đào tươi tốt hơn hoa đào khô. Hoa đào phơi khô trong một năm sẽ mất nhiều tác dụng, hoa đào dùng làm thuốc phải là loại sắp nở hoặc mới chớm nở.

b. Bài thuốc phối hợp
- Đại tiểu tiện bí kết: Lấy hoa đào, thêm gạo tẻ, mật ong, đường trắng nấu thành cháo ăn. Tuy nhiên, khi khỏi bệnh phải ngừng ngay, không nên dùng lâu.
- Kiết lỵ: Hoa đào 15 bông sắc uống ngày 3 lần.
- Chữa các chứng cước khí, đau vùng tim: Dùng hoa đào khô tán bột, uống với nước ấm hoặc rượu với liều từ 3 - 5g trong một ngày.
- Chữa chứng rụng tóc, hói đầu: Dùng bột hoa đào trộn đều với mỡ lợn hoặc dầu vừng rồi bôi lên vùng tổn thương sau khi đã rửa sạch bằng nước hoà với tro của rơm rạ.
- Chữa chứng ngược tật (sốt rét): Dùng hoa đào tán bột uống, mỗi ngày 3g với rượu ấm.
- Chữa béo phì: Uống bột hoa đào mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 1g vào lúc đói.
- Chữa các vết nám đen ở mặt: Dùng hoa đào 4 phần, bạch dương bì 2 phần và bạch quả tử nhân 5 phần, tất cả đem sấy khô, tán thành bột mịn, đựng trong lọ kín dùng dần. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 1g ngay sau bữa ăn.
Dùng hoa đào tươi 50g, nhân hạt bí xanh 50g, hai thứ nghiền nhỏ trộn với mật ong rồi bôi mỗi ngày vài lần lên da mặt.
Dùng hoa đào tươi 250g và bạch chỉ 30g ngâm với 1000ml rượu trắng, sau 1 tháng thì dùng được, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 10ml.
Dùng hoa đào 10g, hoa sen 15g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày.
- Phụ nữ muốn có được làn da trắng trẻo, mịn màng có thể dùng: Hoa đào 200g, nhân hạt bí xanh 250g, và bạch dương bì (vỏ cây bạch dương) 100g. Các vị thuốc trên đều sấy hoặc phơi khô, tán bột, trộn thêm một chút đường trắng rồi đựng trong lọ kín để dùng dần. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 thìa cà phê sau bữa ăn. Hoặc có thể dùng hoa đào, hoa sen và hoa phù dung lượng bằng nhau, sắc lấy nước rửa mặt hàng ngày. Cũng có thể dùng hoa đào tươi 120g ngâm với 500ml rượu trắng, sau 7 ngày thì dùng được, uống mỗi ngày 10ml.
Hoa đào 150g, nhân hạt bí xanh 100g, vỏ quýt 200g, tất cả đều phơi khô, tán bột, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 8g với nước ấm sau bữa ăn. Muốn da trắng thì thêm nhân hạt bí xanh, nếu muốn da đỏ hồng thì thêm hoa đào.
- Bổ thận, nhuận da và dưỡng nhan sắc, có thể dùng món ăn được chế từ hoa đào: hoa đào 20 bông, tôm nõn 300g, củ cải 150g, hành tây 70g, tương cà chua 50g, dầu thực vật và gia vị vừa đủ; hoa đào tỉa lấy cánh rửa sạch, củ cải và hành tây rửa sạch thái mỏng, đổ dầu vào chảo, phi hành cho thơm rồi cho tôm, củ cải, hành tây vào xào to lửa, khi chín cho tương cà chua và gia vị vừa đủ, đổ ra đĩa, rắc cánh hoa đào lên trên, ăn nóng.
- Chữa trứng cá, mụn nhọt trên da mặt: Dùng hoa đào và nhân hạt bí xanh với liều lượng bằng nhau, phơi khô, tán bột, hoà với mật ong mà bôi hoặc dùng hoa đào và đan sa với liễu lượng như nhau, tán bột, uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 4g vào lúc đói trong 10 - 20 ngày.
- Trị mụn nhọt ở vùng lưng: dùng bột hoa đào hoà với giấm đặc mà bôi lên vùng bị tổn thương nhiều lần trong ngày.


a. Thành phần và tác dụng
Hoa cúc gồm nhiều loại gồm cúc bách nhật, bạch cúc, kim cúc, cúc móc, cúc vạn thọ, mỗi loại có chứa những thành phần và tác dụng khác nhau:
Cúc bách nhật vị ngọt hơi chát, tính bình, tác dụng khử đờm, bình suyễn, tiêu viêm, chống ho, dùng chữa hen suyễn, viêm phế quản cấp hay mạn tính, ho gà, lao phổi, ho ra máu, đau mắt, đau đầu, chữa sốt ở trẻ em, khóc thét về đêm, lỵ.
Bạch cúc vị ngọt, hơi đắng, tính hơi hàn, tác dụng tán phong thanh nhiệt, mát gan, sáng mắt, chữa phong nhiệt cảm mạo, đau đầu, cao huyết áp, chóng mặt nhức đầu, mắt đỏ sưng đau, chảy nước mắt. Có thể dùng tươi: giã nhỏ đắp vào chỗ đau hay mụn nhọt, ghẻ lở.
Kim cúc vị đắng, cay, tính hơi ôn, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, chữa mụn nhọt sưng đau, đau mắt đỏ có sưng, đau đầu chóng mặt, chữa cảm lạnh, cúm, viêm não nhẹ, viêm mũi, viêm da mủ, viêm vú, hoa mắt, cao huyết áp, viêm gan, kiết lỵ, chảy nước mắt nhiều...
Cúc móc vị cay, thơm, tính mát, không độc, làm tan màng nhầy, sáng mắt, trừ uế khí, được dùng chữa thổ huyết, chảy máu cam và nhiều chứng khác về huyết; chữa sởi, lở, ù tai, trị ho và làm thuốc điều kinh...
Cúc vạn thọ vị đắng, mùi thơm, tính mát, tác dụng tiêu viêm, làm long đờm, trị ho. Lá cúc vạn thọ làm mắt gan, phổi, giải nhiệt, chữa đau mắt, ho gà, viêm khí quản, viêm miệng, viêm hầu, đau răng; dùng đắp ngoài để trị viêm tuyến mang tai, viêm vú, viêm da mủ.
Nhìn chung, các loại cúc đều chứa nhiều tinh dầu nên có tác dụng chữa trị được nhiều căn bệnh.

b. Bài thuốc phối hợp
- Hen suyễn: Cúc bách nhật, tỳ bà diệp (lá nhót), bảy lá một hoa mỗi vị 6g, quả nhót 10g. Sắc uống ngày một thang chia 3 lần, mỗi lần 60ml nước thuốc sắc. Dùng 3 ngày liền.
- Trẻ em khóc đêm: Cúc bách nhật 5g, xác ve sầu 3g, cúc hoa 2g. Sắc uống ngày một thang chia 3 lần, mỗi lần 300ml, uống 3 ngày.
- Cao huyết áp: Bạch cúc 10g, hoa hoè 8g, lạc nhân 3g. Sắc uống ngày một thang, uống trong 10 ngày liền.
- Hoa mắt chóng mặt: Bạch cúc, hoa thiên lý mỗi vị 10g, ngải cứu 12g; rau má, lá đinh lăng mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang chia 3 lần, uống liền 5 ngày.
- Đau đầu: Bạch cúc 9g, hoa nhài 3g, rau má 10g, cúc bách nhật 5g. Sắc uống ngày một thang chia 3 lần, uống liền 3 - 5 ngày.
- Cảm mạo phong nhiệt: Kim cúc 20g, củ sắn dây 15g, lá dâu tằm 10g, rễ cây lau 8g; bạc hà, cam thảo mỗi vị 5g. Sắc uống ngày một thang chia 3 lần.
- Đinh nhọt: Kim cúc, bồ công anh mỗi vị 30g; từ hoa địa linh 20g; kim ngân 6g. Sắc uống vào lúc đói, ngày một thang chia 3 lần, uống 3 ngày liền.
- Viêm tuyến vú: Kim cúc 20g; hoa kim ngân, bồ công anh, cam thảo mỗi vị 12g. Sắc uống ngày một thang chia 3 lần cho đến lúc khỏi. Bên ngoài dùng lá kim cúc cùng hành, muối, giã nhỏ đắp nơi đau ở vú một lần trong ngày.
- Ho gà: Hoa cúc vạn thọ 15g, đường phèn 10g. Sắc lấy 150ml chia 3 lần uống trong ngày. Uống liền 3 - 5 ngày.
- Đau răng: Hoa cúc vạn thọ 5 bông, lá nhãn 5 lá, muối ăn chừng 15 hạt. Rửa sạch giã nhỏ chia 3 phần đều nhau, mỗi lần đặt một phần thuốc vào nơi răng đau. Còn hai phần ngậm thay đổi mỗi lần một phần.
- Mụn nhọt chưa vỡ: Lá cúc vạn thọ 10g, lá táo ta 15g, muối ăn 10 hạt. Rửa sạch, giã nhỏ, đắp vào nơi đau. Ngày thay một lần.


a. Thành phần và tác dụng
Thiên lý là loại cây nhỏ, mọc leo. Lá hình tim, thuôn. Hoa màu vàng xanh lục nhạt, được trồng ở nhiều nơi để lấy hoa, lá nấu canh ăn rất mát và bổ.
Thành phần dinh dưỡng có trong hoa thiên lý như chất xơ là 3%, chất đạm 2,8%, chất bột đường, các vitamin như C, B₁, B₂, Pp, tiển vitamin A (caroten), cùng các khoáng chất cần cho cơ thể như calcium, phot pho, sắt, đặc biệt là kẽm (Zn) có hàm lượng khá cao. Lá non, ngọn và hoa thiên lý đều có thể sử dụng làm thực phẩm. Hoa thiên lý giàu chất kẽm, rất tốt cho trẻ em đang lớn, không chỉ giúp tăng cường sức để kháng của cơ thể mà còn giúp người già giảm được chứng phì đại tuyến tin liệt,

b. Bài thuốc phối hợp
- Phòng rôm sảy ngày hè: Hàng ngày nấu canh hoa thiên lý ăn. Với trẻ có thể nghiền lá và hoa thiên lý ra nấu lẫn với bột khi cho trẻ ăn dặm.
- Trị giun kim: Theo kinh nghiệm dân gian, hoa thiên lý để trị giun kim rất hiệu quả bằng cách dùng 40g hoa nấu canh ăn hàng ngày (dùng 7 ngày trở lên là khỏi).
- Giảm đau mình mẩy, nhức xương cốt: Hàng ngày lấy hoa thiên lý xào với thịt bò hoặc chấm với muối vừng ăn sẽ có tác dụng.
- Chữa mất ngủ: Hoa thiên lý 30g. Hoa nhài 10g. Tâm sen 15g. Ba vị thuốc trên sắc chung lấy nước uống trong ngày (dùng từ 3 - 5 ngày).
Ngoài ra, canh hoa thiên lý còn có tác dụng mát, bổ và an thần, giúp dễ ngủ, ngủ ngon, bớt mệt mỏi, chữa sốt nhẹ, lao lực.


a. Thành phần và tác dụng
Y học đã chứng minh hoa hoè có tác dụng tăng sức bền thành mạch, cầm máu. Nó cũng giúp tăng cường sức co bóp cơ tim, hạ huyết áp, hạ mỡ máu và làm chậm quá trình xơ vữa động mạch.
Ngoài ra, hoa hoè còn có tác dụng kháng khuẩn, chống viêm, chống co thắt cơ trơn ở đường ruột và phế quản, gây hưng phấn nhẹ, lợi niệu, chống phóng xạ, bình suyễn và chống viêm loét.
Thành phần hoá học chính trong hoa hoè là chất rutin, đó là một loại vitamin P có tác dụng tăng cường sức chịu đựng của mao mạch, cơ thể thiếu chất này tính chịu đựng của mao mạch yếu, dễ đứt vỡ.
Theo Đông y, hoa hoè vị đắng, tính hơi lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, làm mát và cầm máu (lương huyết và chỉ huyết). Thường được dùng để chữa các chứng bệnh chảy máu như đại tiện ra máu, tiểu tiện ra mắu, băng huyết...
Hoa hoè có thể kết hợp với hạ khô thảo, xuyên khung, địa long, cúc hoa, câu đằng chữa cao huyết áp; kết hợp với trắc bá diệp, chỉ xác chữa đại tiện ra máu; kết hợp với bách thảo sương, mẫu lệ nung chữa băng huyết, khí hư; kết hợp với hoa kim ngân chữa viêm loét, mụn nhọt...

b. Bài thuốc phối hợp
- Chữa cao huyết áp: Hoa hoè, tang ký sinh mỗi thứ 25g, hạ khô thảo, cúc hoa, thảo quyết minh mỗi thứ 20g; xuyên khung, địa long mỗi thứ 15g, sắc uống.
Nếu mất ngủ, thêm toan táo nhân sao 15g, dạ giao đằng 25g.
Đau ngực thêm đan sâm 20g, qua lâu nhân 25g. Có cơn đau thắt ngực thêm huyền hồ sách 12g, phật thủ 20g, bột tam thất 7,5g.
Di chứng tai biến mạch não thêm ngưu bàng tử 25g, câu đằng 30g.
Xơ vữa động mạch thêm trạch tả 20g. Hoa hoè, sung uý tử mỗi thứ 15g, cát căn 30g, sắc uống.
Nếu đau tức ngực thêm đẳng sâm, hà thủ ô mỗi thứ 30g.
Hồi hộp, trống ngực và mất ngủ thì thêm toan táo nhân 15g.
Tê tay chân thêm sơn tra 30g, địa long 10g. Tiểu đêm nhiều lần thêm sơn thù 10g, nhục thung dung 15g.
- Đại tiện ra máu: Hoa hoè, trắc bá diệp, kinh giới tuệ và chỉ xác lượng bằng nhau, sấy khô, tán bột, mỗi lần uống 6g với nước cơm.
Hoa hoè sống và sao mỗi thứ 15g, chi tử 30g tán bột, uống mỗi lần 6g.
Hoa hoè 60g, địa du, thương truật mỗi thứ 45g, cam thảo 30g, sao thơm sấy khô, tán bột, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 6g.
Hoa hoè, quả hoè, hoạt thạch mỗi thứ 15g, sinh địa, hoa kim ngân, đương quy mỗi thứ 12g, hoàng cầm, hoàng liên, hoàng bá mỗi thứ 10g, thăng ma, sài hồ, chỉ xác mỗi thứ 6g, cam thảo 3g, sắc uống.
Nếu chảy máu nhiều, thêm kinh giới 10g, địa đu, trắc bá điệp sao đen mỗi thứ 1g.
Thể trạng hư yếu thêm đảng sâm, hoàng kỳ, hoài sơn mỗi thứ 15g. Thiếu máu nhiều thêm hoàng kỳ 15g, thục địa 12g.
- Tiểu tiện ra máu: Hoa hoè sao, uất kim mỗi thứ 30g, tán bột, uống mỗi lần 6g.
- Rong kinh, băng huyết, khí hư: Hoa hoè lâu năm 30g, bách thảo sương 15g, tán bột, uống mỗi lần 9 - 12g với rượu ấm để chữa băng huyết, rong kinh.
Hoa hoè sao, mẫu lệ nung lượng bằng nhau, tán bột, uống mỗi lần 9g với rượu ấm để chữa bạch đới (khí hư màu trắng).
- Chảy máu mũi: Hoa hoè và ô tặc cốt lượng bằng nhau, nửa sống nửa sao, tán bột, mỗi lần lấy một ít thổi vào lỗ mũi.
- Viêm loét: Hoa hoè, hoa kim ngân mỗi thứ 15g, sắc với 2 bát rượu uống cho ra mồ hôi. Với tổn thương viêm loét về mùa hạ, có thể dùng hoa hoè 60g sắc đặc rồi dùng bông thấm dịch thuốc bôi lên nơi bị bệnh nhiều lần trong ngày.

Lưu ý: Hoa hoè tính hơi lạnh nên những người tỳ vị hư hàn (hay đau bụng do lạnh, thích chườm nóng, ăn kém, chậm tiêu, đại tiện thường xuyên lỏng nát) không được dùng vị thuốc này, nếu cần dùng thì phải phối hợp với các dược liệu có tính ấm nóng.



d. Thành phần và tác dụng
Hoa mào gà còn có tên khác là kê quan hoa, kê công hoa, kê cốt tử hoa, mồng gà, lão lai thiểu. Hoa mào gà có đủ các chất béo, axit folic, vitamin B₁, B₂, B₄, B₁₂, C, D, E, K, các axit amin, nguyên tố vi lượng và nhiều loại men thiên nhiên bao gồm cả enzyme nên có tác dụng cầm máu và chữa các chứng viêm loét. Theo Đông y, hoa mào gà vị ngọt, tính mát, có công dụng thanh nhiệt, trừ thấp, lương huyết, chỉ huyết, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như xích bạch lỵ (bệnh lỵ trực khuẩn hoặc amip), trĩ lậu hạ huyết (trĩ xuất huyết), thổ huyết (nôn ra máu), khạc huyết (ho ra máu), tỵ nục (chảy máu mũi), huyết lâm (tiểu buốt và ra máu), băng lậu (rong huyết, rong kinh, băng huyết), đới hạ (khí hư), di tinh.

b. Bài thuốc phối hợp
- Cao huyết áp: Hoa mào gà 3 - 4 bông, hồng táo 10 quả, sắc uống hàng ngày.
- Thổ huyết: Hoa mào gà đỏ (dùng cả cây) lượng vừa đủ, sắc uống. Hoặc dùng hoa mào gà trắng tươi 15 - 24g (loại khô dùng 6 - 15g) hầm với phổi lợn lượng vừa đủ trong 1 giờ rồi chia ăn vài ba lần trong ngày.
- Ho ra máu: Hoa mào gà trắng 30g, trắc bá diệp 30g, cỏ nhọ nồi 30g, sắc uống. Hoặc hoa mào gà tươi 24g, rễ cỏ tranh tươi 30g, sắc uống.
- Lỵ trực khuẩn hoặc amip: Dùng hoa mào gà sắc với rượu uống; nếu là xích lỵ (phân có máu) dùng hoa màu đỏ, bạch lỵ (phân chỉ có nhầy) dùng hoa màu trắng.
- Thoát giang hạ huyết (lòi dom chảy máu): Hoa mào gà và phòng phong lượng bằng nhau, sấy khô tán bột, vo thành viên to bằng hạt ngô đồng, mỗi ngày uống 70 viên với nước cơm khi đói. Hoặc dùng hoa mào gà trắng sao 30g, tông lư thán 30g, khương hoạt 30g, tán thành bột uống mỗi lần 6g với nước cơm.
- Tiểu buốt và ra máu: Hoa mào gà trắng đốt tồn tính, mỗi ngày uống 15 - 20g với nước cơm hoặc dùng hoa mào gà 15g sắc uống.
- Di tinh: Hoa mào gà trắng 30g, kim ti thảo 15g, kim anh tử 15g, sắc uống.
- Nhọt độc vùng gáy: Hoa mào gà tươi, nhất điểm hồng tươi và liên tử thảo tươi lượng bằng nhau, rửa sạch giã nát, chế thêm một chút đường đỏ rồi đắp vào nhọt độc.
- Trị lở loét: Hoa mào gà 3g, ngũ bội tử 3g, một chút băng phiến, tất cả tán bột, trộn với mật lợn rồi bôi lên vùng lở loét.
- Bế kinh: Hoa mào gà tươi 24g hầm với 60g thịt lợn nạc, chia vài lần ăn trong ngày.
- Kinh nguyệt quá nhiều: Hoa mào gà lượng vừa đủ, sấy khô tán bột, uống mỗi lần 6g khi đói với một chút rượu. Hoặc dùng bài hoa mào gà sao cháy tán bột, uống mỗi lần 6 - 9g với nước ấm.
- Kinh nguyệt không đều: Hoa mào gà đỏ và trắng mỗi loại 9g sắc uống. Hoặc dùng hoa mào gà trắng 15g, long nhãn hoa 12g, ích mẫu thảo 9g, thịt lợn nạc lượng vừa đủ, hầm ăn, nếu có kèm khí hư thì gia thêm vỏ trắng rễ tần bì 9g.
- Khí hư: Nếu là bạch đới (khí hư màu trắng) dùng hoa mào gà trắng, xích đới (khí hư có màu đỏ) dùng hoa mào gà đỏ, sấy khô tán bột, mỗi ngày uống 9g vào sáng sớm khi đói. Hoặc: Hoa mào gà trắng 15g, bạch truật 9g, bạch linh 9g, hoa mã đề tươi 30g, trứng gà 2 quả, sắc uống.
- Thai lậu (cố thai không đau bụng mà thỉnh thoảng ra máu): Hoa mào gà trắng sao cháy, long nhãn 10g, sắc nửa rượu nửa nước uống.
- Rong huyết, rong kinh, băng huyết: Hoa mào gà khô 24g sắc uống. Hoặc: Hoa mào gà trắng 15g, phòng phong 6g, tông lư thán 10g, sắc uống. Hoặc: Hoa mào gà và trắc bá diệp lượng bằng nhau, sao cháy tồn tính, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 6g.
- Lên mề đay: Hoa mào gà dùng cả cây sắc uống và ngâm rửa, nếu nốt sẩn màu đỏ thì dùng hoa màu đỏ, nếu sắc trắng thì dùng hoa màu trắng.
- Ho ra máu: Hoa mào gà đỏ 15g, lá huyết dụ 20g sao cháy, lá trắc bá 20g sao cháy, cỏ nhọ nồi 20g. Sắc uống ngày một thang.
- Tiêu chảy: Hoa mào gà 10g, vỏ dộp cây ổi 8g, vỏ quả lựu 10g. Sắc uống ngày một thang.
- Lỵ lâu ngày: Hoa mào gà 20g, cỏ seo gà 20g, lá mơ lông 20g. Sắc uống ngày một thang.
- Sốt xuất huyết: Hoa mào gà 20g, lá trắc bá sao đen 20g, hoa hoè sao đen 15g, ké đầu ngựa 15g, lá dâu 20g. Sắc uống ngày một thang.
- Viêm đường tiết niệu (tiểu buốt, tiểu dắt): Hoa mào gà 20g, bồ công anh 20g, mã đề 20g, râu ngô 15g, rau má 20g. Sắc uống ngày một thang.



a. Thành phần và tác dụng
Hoa đinh hương còn có tên khác là định tử hương, kệ tử hương. Hoa màu đỏ tươi.
Hoa đình hương thường được dùng chữa các chứng bệnh như nấc, nôn, tiêu chảy, kiết lỵ, đau bụng do lạnh, đau răng... Nụ đình hương có mùi thơm, màu hơi vàng nâu và rắn; loại màu đen và có mọt là kém hoặc đã để quá lâu.
Hoa đinh hương chứa nhiều tinh dầu với hàm lượng 15 - 20% ở nụ hoa, 5 - 6% ở cuống hoa, còn lại là ở lá. Tinh dầu hoa đinh hương là chất lỏng nặng hơn nước, không màu hoặc có màu vàng, mùi vị đặc trưng. Ngoài ra hoa đinh hương còn chứa protein, lipit, carbohydrat nên có tác dụng chữa trị đối với một số loại bệnh.
Theo Đông y, đinh hương vị cay, tính ấm, vào bốn đường kinh phế, tỳ, vị và thận, có công dụng ôn trung (làm ấm bụng), noãn thận (làm ấm thận), kích thích tiêu hoá.
Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy đinh hương có tác dụng dược lý khá phong phú làm ức chế sự phát triển của nhiều vi khuẩn (như trực khuẩn lỵ, thương hàn, phó thương hàn, bạch hầu, than, tụ cầu vàng), chống viêm loét đường tiêu hoá, kích thích tiết dịch mật và dạ dày nên thúc đẩy quá trình tiêu hoá, giảm đau, chống viêm...

b. Bài thuốc phối hợp
- Xuất tinh sớm: Đinh hương 20g, tế tân 20g đem ngâm với 100ml rượu 75%, sau nửa tháng thì dùng được. Khi dùng, lấy dịch thuốc xoa lên đầu dương vật, sau chừng vài phút có thể hành sự.
- Bệnh khớp: Đinh hương 20g, long não 12g, cồn 90° 250ml. Ngâm 7 ngày đêm, lọc bỏ bã. Khi dùng, lấy bông thấm thuốc nắn bóp nơi đau nhức, mỗi ngày 2 lần.
- Hôi nách: Đinh hương 18g, hồng thăng đơn 27g, thạch cao 45g. Tất cả tán thành bột thật mịn, trộn đều, đựng trong lọ kín dùng dần. Mỗi ngày lấy một chút bột thuốc thoa đều vào nách, làm liên tục trong 5 ngày.
- Sưng đau chân răng: Định hương, xuyên tiêu lượng bằng nhau, tán thành bột mịn, thêm ít băng phiến, trộn với mật ong, bôi hàng ngày.
- Viêm loét miệng: Định hương 5g tán thành bột mịn, ngâm với nước sạch, sau 4 giờ thì dùng được, lấy tăm bông thấm dịch thuốc bôi vào vết loét.
- Viêm xoang, hơi thở hôi, hắt hơi, sổ mũi: Dùng định hương bọc vào bông, thỉnh thoảng nút vào mũi.
- Nứt đầu vú: Đinh hương 5g tán bột, đường đỏ 5g, hai thứ trộn đều, chế thêm 1 cốc rượu trắng; đem đun cho thật khô rồi lại tán mịn, hoà với dầu vừng, bôi lên vùng tổn thương.
- Viêm nhiễm đường hô hấp, đặc biệt là vùng mũi, xoang mặt: Tinh dầu đinh hương, tinh dầu bạch đàn, menthol, trần bì, hạt mùi, natri bicarbonat, axit citric trộn đều, làm thành viên to. Mỗi lần xông họng 2 - 3g. Có thể hoà vào nước, ngậm súc để cho tinh dầu bay lên.
- Nấc và nôn do hư hàn: Định hương, thị đế, nhân sâm, sinh khương mỗi vị 9g, sắc uống. Hoặc: Đường trắng 250g thêm một chút nước rồi đun nhỏ lửa cho tan hết, cho gừng tươi giã nát 30g, đinh hương 5g vào đun cho đến khi tạo thành dạng keo, sờ tay không dính là được. Đổ ra khay có thoa dầu lạc, đợi nguội rồi cắt thành 50 miếng nhỏ, mỗi ngày ăn một vài miếng sau bữa cơm.
- Thổ tả: Đinh hương 2 nụ, rượu vàng 50ml, cho vào bát hấp cách thuỷ trong 10 phút, sau đó bỏ bã uống rượu.
- Liệt ruột cơ năng: Định hương 30 - 60g tán bột, trộn với rượu mạnh hoặc nước rồi đắp vào vùng rốn (đường kính chừng 6 - 8cm), dùng băng cố định. Hoặc: Đinh hương, mộc hương, nhục quế, xạ hương tất cả tán bột, đắp vào rốn.
- Đại tiện lỏng: Đinh hương 30g, hạt mã đề sao 20g, tất bạt 10g, hồ tiêu 5g, nhục quế 5g. Tất cả tán thành bột mịn, đựng trong lọ kín, mỗi lần lấy 100mg bột thuốc hoà nước đắp vào rốn, dùng băng cố định lại, 1 - 2 ngày thay thuốc một lần.
Hoặc: Định hương 5 - 10g, nhục quế 4 - 6g, mộc hương 5 - 10g, tất cả tán thành bột mịn, đắp vào rốn. Hoặc: Định hương 3g, sa nhân 6g, bạch truật 12g, tán bột, uống mỗi lần 2 - 4g, ngày 2 - 3 lần.



a. Thành phần và tác dụng
Hoa kim ngân (hay còn gọi kim ngân hoa), là cây leo bằng thân quấn, cành non có lớp lông bao phủ gồm lông đơn, ngắn, sau nhẵn, màu hơi đỏ có vân.
Cụm hoa mọc ở kẽ các lá tận cùng, cuống hoa có lông, dài 6 - 22mm, lá bắc giống các lá con hình mũi mác, có cuống dài 15 - 25mm; lá bắc con tròn, dài 1,5mm, lông thưa ở mép; đài có 5 phiến hình mũi mác, mảnh, dài 1 - 15mm, đôi khi không bằng nhau, có lông; tràng màu trắng sau chuyển thành màu vàng có lông mịn và lông tuyến ở ngoài, thơm, ống tràng dài 18 - 20mm, môi dài 15 - 18mm; 5 nhuy thò ra ngoài, đính ở họng tràng; chỉ nhuy nhẵn, bao phấn hình mũi mác đính lưng; bầu nhẵn. Quả hình cầu màu đen.
Nụ hoa hình gậy, hơi cong, dài 2 - 5cm, đường kính đạt tới 5mm. Mặt ngoài màu vàng tới vàng nâu, phủ đầy lông ngắn. Mùi thơm nhẹ, vị đắng. Hoa kim ngân dễ hút ẩm, dễ mốc biến màu, mất hương vị, nên phải để nơi khô ráo, tránh ẩm.
Theo Đông y: Hoa kim ngân có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, không độc, vào 4 kinh tâm, phế, vị và tỳ, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát khuẩn.
Hoa mới nở có màu trắng, sau ngả sang màu vàng trang nhã. Hoa kim ngân là vị thuốc chữa mụn nhọt, mẩn ngứa do dị ứng, viêm mũi do dị ứng, thấp khớp...

b. Bài thuốc phối hợp
- Chữa mẩn ngứa, dị ứng: Hoa kim ngân 20g, huyền sâm 10g, sinh địa 8g, thổ phục linh 6g, liên kiều 10g, hoàng đằng 8g, mạch môn 8g, quyết minh tử (sao) 6g. Cách dùng: cho 800ml nước sắc còn 200ml nước, uống ngày 1 thang, chia làm 3 lần.
- Chữa mụn nhọt: Hoa kim ngân 6g, cam thảo 3g, nước 200ml, sắc còn 100ml chia 2 hay 3 lần uống trong ngày
- Chữa cảm sốt: Hoa kim ngân 40g, liên kiều 40g, kinh giới tuệ 16g, cát cánh 24g, đạm đậu xị 20g, bạc hà 24g, ngưu bàng tử 24g, trúc diệp 16g. Tất cả sấy khô tán bột. Có thể làm thành viên. Ngày uống 1 - 2 lần, mỗi lần 12g.
- Chữa cảm cúm: Hoa kim ngân 4g, tía tô 3g, kinh giới 3g, cam thảo đất 3g, cúc tần hay sài hồ nam 3g, mạn kinh 2g, gừng 3 lát. Tất cả dùng lá phơi khô, sắc uống.
- Chữa béo phì: Hoa kim ngân, hoa cúc, sơn tra mỗi vị 10g. Các vị thuốc đem hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Loại trà này đặc biệt tốt cho những người thừa cân và béo phì có kèm theo cao huyết áp và rối loạn lipit máu thuộc thể vị nhiệt, biểu hiện bằng các triệu chứng hoa mắt chóng mặt, nặng đầu, tay chân buồn mỏi, chóng đói, miệng khát, thích uống nước mát, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dính.
- Chữa bệnh sởi: Hoa kim ngân 12g, ngưu bàng 8g; phù bình, đạm đậu xị, mỗi vị 12g; liên kiều, cát cánh, thăng ma mỗi vị 8g; xác ve sầu 4g.
Hoa kim ngân 30g, cỏ ban (cây nọc sởi) 30g. Dùng tươi, giã nhỏ, cho 50ml nước đã chín, gạn lấy nước, đun cách thuỷ hoặc hấp cơm, ngày uống 2 lần.
Hoa kim ngân 16g, ké đầu ngựa 3g, sinh địa 8g, huyền sâm 10g, kinh giới 4g. Cho 600ml nước, sắc còn 100ml. Uống ngày 1 thang, chia hai lần.
- Chữa sốt xuất huyết thể nhẹ (độ 1 và 2): Cỏ nhọ nồi 20g, hoa kim ngân 12g, rễ cỏ tranh 20g (sao vàng) 8g, sài đất 20g, hạ khô thảo 12g, hoa hoè (sao vàng) 10g, gừng tươi 3 lát. Cách dùng: Cho 600ml nước sạch, đun sôi 30 phút, để ấm uống ngày 3 lần.



a. Thành phần và tác dụng
Hoa nhài được trồng làm cảnh ở khắp nước ta. Hoa nhài thường có màu trắng, hoa hay nở vào ban đêm, cũng có khi nở rộ vào giữa trưa, khi đó hoa sẽ có hương thơm ngát và khí vị rất đặc biệt.
Trong hoa nhài có một chất béo thơm, hàm lượng 0,08%. Thành phần chủ yếu của chất này là este formic axeticbenzoic - lynalil và este anthranili metyl. Hoa nhài được dùng làm mỹ phẩm, ướp trà và còn là vị thuốc hay chữa được nhiều bệnh.
Theo Đông y, hoa nhài có tính bình, hơi hàn, vị đắng có tác dụng tốt trong việc chữa bệnh như: thanh nhiệt, giải độc, lợi thấp, tiêu thũng, hoạt huyết tán ứ, điều kinh lợi niệu. Chuyên trị các bệnh nặng như viêm khớp cấp tính, lao phổi thổ huyết, cảm nhiễm niệu đạo, bệnh về vú, viêm tuyến tiền liệt, đới hạ, tiểu đường, ung thư...

b. Bài thuốc phối hợp
- Chứng tiểu ra máu: Hoa nhài 15g, hoàng tinh 5g đem nấu với thịt lợn để ăn.
- Ho ra máu: Dùng hoa nhài giã nát, thêm chút mật ong uống trị chứng bệnh ho ra máu. Có thể thêm nước sắc uống để khôi phục niệu đạo sau cảm nhiễm.
- Đầu gối đau, nhức mỏi: Hoa nhài 50g, giò lợn 200g, đem nấu để dùng cả cái lẫn nước, trị được các chứng eo lưng và chân vô lực, đầu gối đau.
- Chữa ngoại cảm, phát sốt: Hoa nhài 4g, chè xanh 10g, thảo quả 3g. Nấu uống ngày 1 thang, chia 3 lần.
- Tiêu chảy: Hoa nhài 6g, vỏ ổi 8g, thảo quả 3g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 - 3 lần. Uống liên tục 3 - 5 ngày; hoặc hoa nhài 10g, vỏ quả lựu 10g, cam thảo đất 16g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 - 3 lần.
- Mất ngủ: Hoa nhài 10g, bồ công anh 20g, hoa kim ngân 20g, cam thảo đất 10g, sắc uống ngày 1 thang chia 2 - 3 lần.
- Nhức đầu, hoa mắt chóng mặt: Hoa nhài 6g, hoa cúc vàng (kim cúc) 6g. Hãm uống thay trà.
- Cao huyết áp: Hoa nhài 10g, hoa hoè 10g, kim cúc 6g, hoa đại 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
- Hen suyễn: Dùng hoa nhài 3g, đậu phụ 100g hãm vào nước sôi uống trị được phế ung, hen suyễn, ngực đầy khí suyễn, hô hấp không thuận.
- Chữa tiêu khát, tràng vị: Hoa nhài 3g sắc uống thay trà, chữa các chứng lỵ, nếu thêm râu ngô 20g thì cải thiện được công năng tràng vị, chữa các bệnh tiêu khát, vật vã không yên.
- Hay đói, ngực đầy, bụng trướng, tâm thần bất an: Hoa nhài 5g, tuỷ lợn 200g, bạch quả 3g, sắc với nước trong 1 giờ trị được các bệnh khát tiểu nhiều, hay đói, ngực đầy, bụng trướng, tâm thần bất an.
- Thanh thuần tỉnh não, khai khiếu giải phiền: Hoa nhài khô 1 thìa, cho hoa nhài vào bình trà, rót 350ml nước sôi để hãm, 5 phút sau trà có mùi thơm, uống được, người thích ngọt thì cho thêm mật ong để nguội uống càng tốt.



a. Thành phần và tác dụng
Ngọc lan là loại hoa có mùi thơm ngất ngây rất đặc biệt, là loài thực vật thuộc họ mộc lan. Hoa ngọc lan có 2 loại quen thuộc thường gặp là ngọc lan trắng và ngọc lan vàng. Mùa xuân (vào khoảng tháng 2) là lúc ngọc lan nở. Khi nụ hoa chưa nở, thu hoạch, cắt bỏ cành,
phơi khô trong bóng râm (phơi âm can) dùng để làm thuốc. Trong hoa ngọc lan chứa nhiều tinh dầu giúp tinh thần sảng khoái, thư giãn.
Theo Đông y, hoa ngọc lan có vị đắng, cay, hơi ấm, có tác dụng chống ho làm long đờm, lợi tiểu, làm phấn chấn, trấn kinh, khu phong, kiện vị, giáng áp, giải độc. Dùng chữa các chứng ho, đầy hơi, buồn nôn, sốt, bí tiểu tiện, cao huyết áp...
Ngoài hoa, lá, rễ, vỏ thân cây ngọc lan đều có tác dụng làm thuốc chữa nhiều bệnh khác nhau.

b. Bài thuốc phối hợp
- Chữa ho đau yết hầu: Dùng 20g hoa ngọc lan đem tẩm mật ong trong 3 ngày rồi sắc uống như trà, có thể dưỡng phế nhuận yết hầu, điều lý trường vị, chữa trị ho do không khí lạnh hoặc ô nhiễm, ngực đau, đầu vựng mắt hoa.
- Chữa vô sinh: Dùng 10g hoa ngọc lan chưa nở sắc uống thay trà, uống vào buổi sáng. Cứ 30 ngày một liệu trình, có thể cải thiện thống kinh và vô sinh nữ.
- Trị ho trừ đờm, lợi tiểu tiện: Hải triết 2 mảnh, dưa hồng 1 quả, cà rốt 1 củ, tôi 5 củ, hoa ngọc lan 15g. Gia vị gồm giấm trắng 1 thìa to, dầu thơm 1 thìa nhỏ, xì dầu 1 thìa, đường 1 thìa. Hải triết bì dùng nước ngâm nhiều lần rồi rửa sạch, khử mùi tanh. Dưa rửa sạch, bỏ đầu, cuống và tua, thái nhỏ. Cà rốt cạo vỏ ngoài thái nhỏ. Hoa ngọc lan rửa sạch, bóc cánh rồi thái nhỏ. Cho tất cả các nguyên liệu trên trộn đều với nhau, thêm gia vị sau đó rắc hoa ngọc lan lên trên cho thêm nước vừa đủ rồi sắc như sắc thuốc là được.
- Giúp trắng da, tiêu hoá tốt: Hoa ngọc lan 6g, trà xanh 1 thìa. Hoa ngọc lan rửa sạch bằng nước muối, để ráo nước, cho vào bát. Rót nước sôi vào, sau đó cho trà xanh, đợi có mùi hương bay ra, có thể uống thay trà.
- Chữa ho: Hoa ngọc lan 30g, mật ong 40g, cho 2 thứ vào hấp cách thuỷ trong 20 - 30 phút để ăn.
- Chữa đau bụng kinh ở phụ nữ: Ngọc lan 20g, ý dĩ nhân 30g, hạt đậu ván trắng 30g, hạt mã đề 5g sắc uống trong ngày.
- Chữa viêm xoang: Lấy hoa ngọc lan sấy khô giòn, tán và rây thành bột mịn, đựng vào lọ kín. Khi bị chảy nước mũi, mở lọ ngửi và hít mạnh để bột thuốc bay vào mũi, ngày làm 2 - 3 lần.



a. Thành phần và tác dụng
Râm bụt là loài hoa khá đẹp, nở rộ vào mùa hè và đầu mùa thu, hoa to xoè 5 cánh đỏ rực rõ, trông tựa như cái dù, ở giữa vươn ra nhuy đài. Trẻ em thường lấy nhuy hoa râm bụt để ăn. Trong Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh và trong Lãnh Nam bản thảo của Hải Thượng Lãn Ông có ghi: "Râm bụt có vị ngọt, tính bình, không độc, tính thông hoạt, trị lở ngứa, sưng đau, bạch đới, mất ngủ, giải khát". Hoa râm bụt thường được dùng làm thuốc chữa một số bệnh như mất ngủ, hồi hộp, nước tiểu đỏ. Trong hoa râm bụt có chứa các chất chống oxy hoá có tác dụng kiểm soát lượng cholesterol và giảm nguy cơ bệnh tim.

b. Bài thuốc phối hợp
- Mụn nhọt: Lấy hoa tươi và lá sạch, giã nát với một ít muối đắp lên những mụn nhọt đang mưng mủ (khô thuốc lại thay) cho đỡ đau nhức và chóng vỡ mủ. Hoặc dùng hoa râm bụt phối hợp với lá trầu không, lá thồm lồm (3 thứ bằng nhau), đem giã nát, đắp lên mụn đang mưng mủ, cũng có công dụng tương tự.
- Khó ngủ, hồi hộp, nước tiểu đỏ: Dùng hoa râm bụt phơi khô, hãm uống như uống nước trà.
- Kiết lỵ: Bụng đau quặn, mót đại tiện nhiều lần, phân lầy nhầy như nước mũi, hoặc màu máu cá. Hái 10 hoa râm bụt bỏ cuống hoa, cho vào bát ăn cơm, thêm 1 thìa cà phê đường, đem hấp cơm. Khi cơm chín lấy bát thuốc ra ăn. Bài thuốc này không độc, trẻ em rất thích ăn, áp dụng cho cả người lớn và trẻ em.
- Nhức đầu chóng mặt ở phụ nữ: Lấy một nắm hoa râm bụt (khoảng 50g), 3 lát gừng tươi, tất cả đem sắc uống.
- Chữa di mộng tinh: Lấy hoa và lá râm bụt, lá bấn hoa trắng (còn gọi là bạch đồng nữ), thài lài tía, mã đề; mỗi thứ một nắm bằng nhau (chừng 50g) đem sắc uống. Với phụ nữ ra khí hư bạch đối như máu cá, hoặc tiểu buốt, tiểu dắt cũng dùng bài thuốc này để chữa trị.
Ngoài hoa, lá, thì vỏ và rễ của cây râm bụt cũng được dùng làm thuốc - rễ tiêu viêm tiết niệu, điều hoà kinh nguyệt...
Cũng cần phân biệt râm bụt ta, với cây râm bụt Tây (có nguồn gốc từ Nam Mỹ) còn gọi râm bụt dấm, hoa có màu đỏ tía, cấu trúc hoa có khác khi nhìn gần. Loại cây này mới được du nhập vào trồng ở nước ta trong những năm gần đây, cũng có nhiều lợi ích tốt; nhưng không thuộc vào các trị liệu nói trên.



a. Thành phần và tác dụng
Không chỉ dùng để ướp trà, hoa ngâu còn là một vị thuốc. Hoa ngâu nhỏ, màu vàng, mọc thành chùm ở kẽ lá, rất thơm, thường được dùng để ướp trà và làm vị thuốc, mùa hoa vào tháng 7, tháng 8.
Hoa ngâu có vị cay ngọt, giúp giải uất kết, làm thư giãn, giúp tỉnh rượu, sạch phổi, tỉnh táo đầu óc, sáng mắt, ngưng phiền khát, được dùng chữa chứng đầy trướng khó chịu ở ngực, chứng nghẹn hơi mới phát, chữa ho hen và váng đầu, nhọt độc.

b. Bài thuốc phối hợp
- Cao huyết áp: Hoa ngâu 10g, hoa cúc 30g. Hai thứ gộp chung, chia làm 3 phần bằng nhau. Khi dùng cho một phần vào tách, rót nước sôi già ngâm, để nguội uống. Uống hết 3 phần thuốc đó trong một ngày.
- Chứng bế kinh: Hoa ngâu 10g, rượu 50g. Cho hoa vào rượu, thêm vào chút nước, nấu cách thuỷ đến khi hoa chín nhừ, để nguội uống. Uống trước ngày có kinh 3 ngày, uống liền trong 5 ngày, ngày uống 1 lần.
- Chứng thương tích do vấp ngã, bị đòn: Hoa ngâu, lá ngâu mỗi thứ 50g. Gộp chung cả hai thứ, cho vào một lượng nước vừa phải nấu chín, chắt lấy nước, đổ nước vào nấu tiếp, nấu đủ 3 lần, gộp chung nước thuốc chắt 3 lần, trước tiên nấu bằng lửa to, sau nấu bằng lửa nhỏ thành cao.
Mỗi lần dùng, quết một ít cao này lên vải lụa mỏng đắp vào chỗ vết thương sưng đau, đắp thuốc cao này một lần.
- Chữa say rượu: Hoa ngâu, hoa sắn dây (cát hoa) mỗi thứ 10g. Gộp chung cả hai thứ vào cốc, rót nước sôi già vào ngâm uống.
Ngoài ra, nhân dân còn dùng hoa ngâu để ướp trà, uống rất thơm và mát, chữa hen suyễn, sốt rất hiệu quả.



a. Thành phần và tác dụng
Tầm xuân còn gọi là hồng tầm xuân, hoa hồng dại, dã tường vi, thuộc họ hoa hồng, là một loài hoa đẹp được trồng từ lâu đời ở các biệt thự, công sở, vườn hoa công cộng, vườn gia đình. Người ta dùng hoa và quả tầm xuân làm thuốc. Hoa tầm xuân có chứa nhiều vitamin B₁, B₂, K nên rất tốt cho bệnh tiểu đường, sốt rét, chảy máu cam, viêm loét niêm mạc miệng.

b. Bài thuốc phối hợp
- Cảm nắng, cảm nóng vào mùa hạ có các triệu chứng tức ngực, buồn nôn và nôn, có thể có nôn ra máu, môi khô miệng khát, chán ăn, mệt mỏi: Dùng hoa tầm xuân 3 - 9g sắc uống hoặc hoa tầm xuân 5g, thiên hoa phấn 10g, sinh thạch cao 30g, mạch môn 15g, sắc uống.
Hoặc hoa tầm xuân 10g và hoa đậu ván trắng 10g, hãm với nước sôi, chế thêm một chút đường phèn, uống thay trà.
- Nôn ra máu và chảy máu cam: Dùng hoa tầm xuân 6g, bạch cập 15g và rễ cỏ tranh 30g, sắc uống.
- Ngược tật (sốt rét): Dùng hoa tầm xuân sắc uống thay trà.
- Bướu tuyến giáp: Dùng hoa tầm xuân 5g, hoa hậu phác 5g, hoa chỉ xác 5g và hoa hồng 5g, sắc uống.
- Tiểu đường và viêm loét niêm mạc miệng mạn tính: Dùng 30ml sương đọng trên hoa tầm xuân vào buổi sáng sớm pha chút nước ấm uống hàng ngày.

Trích nguồn từ sách: "NHỮNG VỊ THUỐC QUANH TA"
của Đức Minh do NXB Hà Nội ấn hành


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.