Chuyển đến nội dung chính

DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN - Chương III - NGUYÊN NHÂN BỆNH VÀ PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN

Chương II - MỘT SỐ HỌC THUYẾT Y HỌC CỔ TRUYỀN - HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH
DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN - Chương III - NGUYÊN NHÂN BỆNH VÀ PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN

Chương III
NGUYÊN NHÂN BỆNH VÀ PHƯƠNG PHÁP
CHẨN ĐOÁN THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN

I. NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN
Theo y học cổ truyền, nguyên nhân gây bệnh có 2 nguyên nhân lớn là ngoại nhân (nguyên nhân bên ngoài) và nội nhân (nguyên nhân bên trong).

1.1. Ngoại nhân.
Có lục dâm (6 nguyên nhân xấu). Sáu nguyên nhân này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ con người; đó là: phong, hàn, thử, thấp, táo, hoả; đó là lục khí của trời. Ở điều kiện bình thường lục khí này vô hại đối với con người; song ở điều kiện bất thường lục khí đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sức khoẻ con người; trên cơ sở đó mà phát sinh ra bệnh tật. Tuy nhiên nếu cơ thể sức đề kháng giảm thì ngay trong những điều kiện bình thường cũng vẫn có thể phát sinh ra bệnh.

1.1.1. Phong:
Phong là chủ khí của mùa xuân, song 4 mùa đều có phong tà. Tuy nhiên khí của thấp, nhiệt, táo, hàn đều dựa vào phong để nhập vào cơ thể mà gây ra bệnh và lúc đó gọi là ôn phong, phong nhiệt, phong hàn, phong thấp. Đặc điểm của bệnh phong là lưu động và nhanh chóng, nhanh chóng chuyển từ bộ phận này đến bộ phận khác. Ví dụ sau một chuyến đi xe bị lạnh, bệnh nhân bị sưng mặt, méo miệng, lệch mắt... Hoặc sáng đau khớp vai, chiều đau khớp khuỷu, tối đã chuyển xuống cổ tay...

Bệnh phong chia ra hai loại:

1.1.1.1 Ngoại phong:
Phong đưa lại do những nguyên nhân bên ngoài như phong tà đưa lại bệnh ngoại cảm phong tà, ví dụ cảm mạo phong hàn hoặc cảm mạo phong nhiệt.
Do phong thuộc loại dương tà nên bệnh thường thuộc biểu, thường do có sốt, có đau đầu, ngứa họng, bụng đầy, nôn... Ngoài ra có những bệnh do có đặc điểm nhanh chóng cũng được gọi là bệnh phong như: sởi, phát ban...

1.1.1.2. Nội phong:
Bệnh phong do trong cơ thể phát ra.
Ví dụ nhiệt cực sinh phong. Do nguyên nhân sốt cao mà gây phong co giật. Can phong nội động → phong do ở can sinh ra như động kinh, kinh giản... gây co giật, hoặc huyết hư sinh phong → thường là phong ngứa, chàm, dị ứng nội sinh.
- Để chữa bệnh phong, phải căn cứ vào các nguyên nhân cụ thể mà nó dẫn đến. Ví dụ ngoại phong gây ra cảm mạo thì dùng thuốc tân ôn hoặc tân lương kiêm trừ phong. Huyết hư sinh phong thì phải dùng thuốc chữa về huyết "trị phong tiên trị huyết", phải dùng thuốc bổ huyết. Nếu do huyết trệ gây phong (phong ngứa, dị ứng) thì phải dùng thuốc hành huyết "huyết hành phong tự diệt", muốn huyết hành phải dùng kèm thuốc hành khí "khí hành huyết hành".
- Trường hợp can phong nội động phải dùng thuốc trấn kinh an thần kiêm thư can hoạt lạc để bình can tiềm dương.

1.1.2. Hàn:

1.1.2.1. Ngoại hàn:
Nguyên nhân chính là do lạnh gây ra. Lạnh làm tổn thương đến dương khí. Ở mức độ nhẹ hàn tả còn ở phần biểu, gây cảm mạo phong hàn sốt cao, rét run, đau đầu, đau họng, ho... (cảm mạo, phong hàn). Bệnh hàn có đặc điểm là ngưng trệ. Khí hàn có khuynh hướng hút sâu vào phía trong rồi ngưng đọng lại gây ra tích trệ, đau tắc do huyết ứ, khí tắc. Khi đó cơ thể sẽ mắc chứng "trúng hàn", tức nguyên nhân hàn đã vượt qua hàng rào "biểu" vào tới tạng phủ. Tạng mà hàn dễ nhập vào đó là tỳ và phế.
Để điều trị các bệnh ngoại hàn nói chung, y học cổ truyền dùng thuốc tân ôn giải biểu (đối với cảm hàn); dùng thuốc ôn lý trừ hàn (khi hàn nhập lý).

1.1.2.2. Nội hàn:
Nguyên nhân chính là do nội tạng thiếu dương khí, đó là trường hợp tâm dương hư, biểu hiện chân tay giá lạnh, sợ gió. Hoặc thận hư biểu hiện xương cốt, lưng gối đau lạnh, đi ngoài sống phân hoặc ỉa chảy. Khi ăn nhiều thức ăn sống lạnh cũng dễ dẫn đến hội chứng nội hàn.
Thuốc dùng cho các bệnh thuộc chứng nội hàn thường có vị cay tính ôn nhiệt hoặc các loại thuốc bổ dương.

1.1.3. Thử:
Thử có liên quan đến hoả, đều là chủ khí của mùa hạ. Thử là nóng là dương nhiệt, tính chất chủ thăng, chủ tán. Do vậy nếu thử mà thâm nhập vào người thì làm cho tấu lý mở, ra nhiều mồ hôi mà tổn thương đến nguyên khí và tổn thương tân dịch; do đó dẫn đến đau đầu chóng mặt bồn chồn hao khát, nếu nặng quá nhân phế sâu vào cơ thể gọi là "trúng thử", trúng thử dẫn đến bất tỉnh nhân sự, sốt cao, mê sảng, đờm nhiều và sẽ ảnh hưởng đến tạng phế gây ho, nục huyết, khái huyết...
Thuốc dùng cho chứng thử thường có vị đắng tính bình hoặc lương, đa phần là sinh tân chỉ khát, ví dụ các loại thanh nhiệt giải thử (rễ sắn dây tươi, rau má, rễ đạm trúc diệp, lá sen tươi...). Nếu đã trúng thử thì phải dùng thuốc giải thử, thuốc thanh nhiệt tả hoả kiêm hoá đờm thanh nhiệt lương huyết.

1.1.4. Thấp:
Thấp là chứng ẩm thấp, là chủ khí của mùa trưởng hạ, do vậy trưởng hạ dễ phát sinh ra bệnh thấp. Thấp là âm tà, thấp gây ra trở ngại cho vận hành khí cơ, dễ làm tổn thương đến dương khí của cơ thể. Thấp có tính chất "trọc, nhờn trệ" dễ có khuynh hướng hút vào trong và gắn lại nơi thấp chạy vào, và khó gỡ ra, khó chữa hơn bệnh phong.

1.1.4.1. Thấp ngoại:
Nguyên nhân gây thấp ngoại là nguyên nhân thấp ở bên ngoài đưa đến. Đó là nguyên nhân ẩm thấp của môi trường khí hậu nơi sinh sống hoặc nơi làm việc. Ví dụ thấp ngoại thường xảy ra với những người làm việc ở điều kiện tiếp xúc nhiều với nước, bùn đất hoặc sinh sống trong các nơi có độ ẩm không khí cao. Khí thấp tà xâm nhập vào cơ thể thường thấy ở các bộ phận phía dưới như chân, các khớp đau nhức sưng phù tê bì; hoặc đau lưng, đau vai... Nếu thấp ở phần trên thì đầu có cảm giác nặng, chảy nhiều nước mắt, nước mũi; thấp ở biểu lúc nóng lúc lạnh.

1.1.4.2. Thấp nội:
Bệnh thường phát sinh từ tỳ vị do ăn nhiều các thức ăn tính lạnh, tính nhờn béo, làm cơ thể khó hấp thu, khó chuyển hoá, có khi do cơ quan khác chuyển tới. Ví dụ bệnh hoàng đản nguyên nhân từ can đởm song ảnh hưởng đến tỳ vị mà gây thấp nội thường biểu hiện bụng đầy trướng, buồn nôn.
Các thuốc có liên quan đến bệnh thấp đó là thuốc hoá thấp, lợi thấp và trừ thấp. Ngoài ra thấp thường đi đôi với một số triệu chứng khác như phong gọi là phong thấp, đi với hàn gọi là hàn thấp, đi với nhiệt gọi là thấp nhiệt.Khi đi kèm với các triệu chứng này, về mặt thuốc cũng cần có sự kết hợp hài hoà. Ví dụ bệnh phong thấp phải kết hợp vừa thuốc trừ thấp với thuốc trừ phong...

1.1.5. Táo:
Táo là khô ráo, là chủ khí của mùa thu, tính của táo là khô, tương ứng với khí của phế. Khi phế thông với bì mao, biểu lý với đại tràng. Do đó các triệu chứng của táo gây ra với cơ thể là da khô, môi khô, miệng khô, họng đau ho và đại tràng táo kết.

1.1.5.1. Táo ngoại:
Táo do khí hậu khô hanh dẫn đến, gây da khô nứt nẻ, miệng khô, chảy máu cam.

1.1.5.2. Táo nội:
Do huyết hư, tân dịch không đầy đủ. Biểu hiện cơ thể háo khát, tiểu tiện ngắn đỏ, đại tiện táo kết hoặc trường phong hạ huyết, da khô, xanh gầy, nhiều khi uống thuốc không đúng cũng gây táo nội. Ví dụ uống nhiều thuốc có tính cay nóng hoặc lợi tiểu... cũng gây táo; hoặc ăn uống kém, ít vận động cũng gây táo nội.
Các loại thuốc có liên quan đến chứng táo đó là các loại thuốc tả hạ, nhuận hạ, thuốc sinh tân chỉ khát, thuốc thanh nhiệt lương huyết, chỉ huyết, thuốc bổ âm...

1.1.6. Hoả:
Hoả là nhiệt ở mức độ cao, có liên quan đến thử. Cùng là chủ khí của mùa hạ. Nắng và nóng là nguyên nhân trực tiếp gây ra chứng hoả. Khi mắc chứng hoả thì tạng phủ tân dịch khí huyết trong cơ thể bị thiêu đốt, cơ thể sốt cao, phát cuồng, hôn mê.
Các chứng phong hàn, thử thấp, táo đều có thể dẫn đến hoả gọi là phong hoá hoả, thử hoá hoả, thấp hoá hoả, táo hoá hoả. Khi chuyển sang giai đoạn hoả thì bệnh chuyển sang giai đoạn nặng hơn, khó chữa hơn. Triệu chứng của bệnh hoả nói chung sốt cao, mặt đỏ nhừ, mắt đỏ, môi khô, nứt nẻ, miệng loét, họng lợi sưng đỏ.
Các thuốc có liên quan đến triệu chứng hoả là thanh nhiệt tả hoả, thanh nhiệt lương huyết, thanh nhiệt giải độc..., thuốc sinh tân chỉ khát.

1.2. Nội nhân (nguyên nhân bên trong).
Nội nhân có thất tình (bảy trạng thái, bảy nguyên nhân) của cơ thể ảnh hưởng đến việc phát sinh bệnh tật. Bảy mức độ đó phản ánh bảy mức độ khác nhau của tâm lý. Đó là: hỷ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh.

1.2.1. Hỷ (vui mừng):
Là một trạng thái của hoạt động tinh thần, vui mừng làm cho con người sảng khoái, phấn chấn. Nếu quá mức sẽ ảnh hưởng đến tạng tâm.

1.2.2. Nộ: Là phẫn nộ, bực tức. Nộ hại can.

1.2.3. Ưu (ưu sầu): Buồn rầu, hại phế.

1.2.4. Tư (tư lự): Lo âu, hại tỳ.

1.2.5. Bi (bi quan, chán nản): Hại phế, hại tỳ.

1.2.6. Khủng (khủng khiếp): Hại tâm.

1.2.7. Kinh (kinh hoàng): Hại tâm, hại thận.

Nếu cơ thể khoẻ mạnh sẽ điều hoà được các yếu tố tâm lý nói trên, tức là điều hoà được âm dương trong cơ thể, nếu cơ thể không điều hoà lại được thì gây bệnh.
Trong hai nguyên nhân dẫn đến bệnh tật nói trên, giữa ngoại nhân (lục dâm) và nội nhân (thất tình), thì nội nhân vẫn là nguyên nhân chính, quyết định đến sức khoẻ con người. Khi sức đề kháng của cơ thể đủ mạnh thì thời tiết, khí hậu dù có biến đổi cũng không dễ dàng làm cho cơ thể bị mắc bệnh.

II. TỨ CHẨN
Khi xem xét bệnh tình của người bệnh cần xem xét toàn diện. Trên cơ sở đó người thầy thuốc có điều kiện nắm thật chắc căn bệnh của bệnh nhân. Có như vậy mới thiết lập phương dược chuẩn xác. Phương thuốc có phù hợp mới đưa lại hiệu quả điều trị cao.
Tứ chẩn là bốn phương pháp chẩn đoán mà y học cổ truyền thường dùng để khám bệnh. Tuy nhiên hiện nay có sự kết hợp với các phương tiện chẩn đoán hiện đại khác.

2.1. Vọng.
Là phương pháp nhìn để khám bệnh. Người thầy thuốc dùng phương tiện quan sát bằng mắt của mình để khám phá ra các dấu hiệu bệnh tật của bệnh nhân. Do vậy đây là những phát hiện đầu tiên mang tính khách quan có ý nghĩa, giúp người thầy thuốc phần nào có ý thức định hướng về một loại hình bệnh nào đó.

2.1.1. Vọng về thần thái:
Quan sát về tinh thần của người bệnh, dấu hiệu đó thể hiện ở mặt, mắt và động thái của họ. Từ đó khái quát được tổng ấn tượng: có thần, không thần, thần giả.
- Có thần: biểu hiện mắt sáng, nhanh nhẹn bình thường, hoặc bệnh còn nhẹ chính khí hao tổn chưa nhiều.
- Vô thần: tinh thần mệt mỏi, niêm mạc mắt tối, phản ứng chậm chạp, nói năng đoản hơi mệt mỏi. Đó là chính khí đã thể hiện hao tổn, biểu hiện bệnh có xu hướng nặng.
- Thần giả: bệnh lâu ngày, đột nhiên tinh thần lại hưng phấn lên, muốn ăn uống, điều đó biểu hiện chính khí hư thoát nhiều còn gọi là "hồi quang, phản chiếu", là chứng trạng trầm trọng của bệnh nhân.

2.1.2. Vọng sắc da:
- Sắc hồng: đặc biệt mặt hồng biểu hiện bệnh nhiệt. Nếu bệnh cảm mạo thời kỳ đầu mặt hồng kèm sốt, đa phần do phong nhiệt. Nếu mặt hồng kèm sốt cao, miệng khát, tiện bí thuộc chứng nhiệt bên trong. Nếu bệnh lâu ngày, lưỡng quyền hồng là chứng âm hư nội nhiệt. Đó là chứng của các bệnh lao phế. Nếu mặt hơi hồng mà kèm vết trắng không ổn định là thực chứng dương hư thượng phù.
- Sắc trắng: sắc mặt trắng bệch, bệnh thuộc hư hàn, đó là bệnh khí huyết hư nhược. Mặt trắng bệch mà phù là thận dương bất túc phần lớn là do thận, viêm thận mạn tính. Mặt trắng bệch mà khô là huyết hư. Nếu mặt có các điểm trắng to nhỏ đó là bệnh giun.
- Sắc vàng: mặt vàng là biểu hiện bệnh thấp, bệnh hư. Nếu lòng trắng mắt vàng và da vàng là bệnh hoàng đản thuộc chứng thấp. Nếu vàng tươi, vàng chanh là dương hoàng thuộc thấp nhiệt. Nếu vàng mà xạm như khói là âm hoàng thuộc chứng hàn thấp. Sắc mặt vàng nhạt (mắt không vàng) đó là tỳ vị hư nhược, ăn uống không đủ hoặc có nhiều giun.
- Sắc tím: mặt và môi tím tái biểu hiện ứ huyết, thuộc chứng kinh phong. Môi miệng các móng tay tím tái là biểu hiện đoản khí, biểu hiện tâm dương hư nhược, khí huyết vận hành không thông suốt, thường thấy tim yếu, bệnh của tạng phế, tạng tâm. Nếu mặt môi tím tái ngực trái đau đó là chứng tâm huyết ứ trệ trong bệnh cơ tim xơ cứng. Trẻ con mặt môi xanh tím là có chứng kinh phong.
- Sắc đen: sắc mặt phát đen biểu hiện chứng hư hàn, chứng đau, thường thấy ở chứng bệnh thận dương suy.

2.1.3. Nhìn lưỡi:
Lưỡi là nơi thể hiện nhiều chứng trạng của bệnh trong cơ thể thông qua rêu lưỡi và chất lưỡi.
- Màu sắc của chất lưỡi: bình thường lưỡi có màu hồng nhạt. Nếu chất lưỡi trắng nhạt là thuộc chứng hư, hàn như huyết hư, khí hư, vong dương.
+ Lưỡi đỏ: chủ về nhiệt. Bệnh ngoại cảm thì đầu lưỡi và 2 bên lưỡi đỏ, rêu lưỡi mỏng. Nếu phong nhiệt thì lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dày, biểu hiện thực nhiệt. Bệnh nội thương đầu lưỡi đỏ, đó là chứng tâm hoả thịnh. Lưỡi hồng mà rêu lưỡi ít hoặc không có rêu lưỡi là chứng âm hư.
+ Lưỡi sáng bóng, màu hồng thẫm chủ dinh huyết nhiệt, âm tinh hao tổn. Các bệnh ngoại cảm, tà nhập vào dinh huyết như chứng tán huyết, viêm màng não có mủ đều thấy lưỡi đỏ bóng. Phần nhiều liên quan đến trạng thái sốt cao mất nước hoặc các bệnh nội thương, âm hư hoả vượng.
+ Lưỡi có màu tím: là biểu hiện chứng huyết ứ, đôi khi có nốt tím đều do bệnh huyết ứ lâu ngày.
- Nhìn hình thể lưỡi: lưỡi cứng, có loét thuộc chứng thực. Lưỡi thô to, mềm là chứng hư. Phía bên có các hằn nốt răng là thuộc chứng khí hư hoặc tỳ thận dương hư. Nếu thể chất lưỡi to thô dày miệng mà đỏ thuộc tâm tỳ nhiệt độc thịnh.
- Rêu lưỡi:
+ Rêu lưỡi trắng chủ hàn, nếu rêu trắng mỏng, phong hàn biểu chứng. Rêu trắng mỏng, đầu lưỡi đỏ, 2 bên đỏ là phong nhiệt biểu chứng. Nếu rêu trắng bóng biểu hiện hàn thấp hoặc chứng đờm ẩm. Rêu lưỡi trắng nhờn đa phần đàm trọc hoặc thấp tà. Nếu rêu lưỡi trắng mà dày là ăn uống bị trệ.
+ Rêu lưỡi vàng: chủ chứng nhiệt, ngoại tà từ biểu vào lý. Rêu lưỡi vàng là thể hiện lý nhiệt. Rêu lưỡi vàng khô là nhiệt tổn thương tân dịch. Rêu lưỡi vàng dày có gai nhọn là trường vị thực nhiệt tích trệ.

2.1.4. Nhìn hình thể cơ thể bệnh nhân: Dáng vóc, đi, đứng, ngồi v.v..

2.2. Văn chẩn.
Văn chẩn là phương pháp người thầy thuốc dùng tai để nghe đối với bệnh nhân.
- Nghe âm thanh: tiếng nói to khàn thuộc ngoại cảm thực chứng, tiếng nói nhỏ khàn thuộc nội thương hư chứng. Tiếng nói mạnh có lực là thuộc chứng nhiệt, chứng thực, phiền táo. Tiếng nói thấp dọng, vô lực yếu ớt là thuộc chứng hư, chứng hàn. Tiếng nói hỗn loạn là thần thức bất tỉnh, thuộc chứng thực. Tiếng dọng thấp, nặng nề uể oải tinh thần ức chế thuộc chứng hư.
- Nghe tiếng ho: tiếng ho nặng đục là phong hàn phạm phế. Tiếng ho to là phế thực. Ho lâu ngày, tiếng ho vô lực thuộc phế hư.
- Nghe tiếng thở: hơi thở có tiếng rít mà có đờm là phế nhiệt, chứng lý thực. Hô hấp khí đoản thuộc chứng hư.

2.3. Vấn chẩn.
Là phương pháp hỏi của người thầy thuốc đối với bệnh nhân.
- Hỏi tên, tuổi, nơi ở, nghề nghiệp: việc hỏi các điểm này thường được tiến hành đầu tiên để lấy số liệu mang ý nghĩa lưu trữ bệnh án là chính. Tiếp theo là hỏi đến tiền sử bệnh và các triệu chứng bệnh hiện tại. Trong đó đáng quan tâm cả các số liệu mà bệnh nhân đã được khám qua các phương pháp chẩn đoán hiện đại như siêu âm, hoá nghiệm, điện tâm đồ, điện não đồ... Tất cả những điểm hỏi này nên làm sau khi đã tiến hành phương pháp thiết chẩn (bắt mạch), thì triệu chứng mới được thể hiện khách quan và người thầy thuốc không sợ sa vào những lời trình bày chủ quan của bệnh nhân. Việc làm này rất khó; song nó rất hữu ích cho các thông tin về bệnh tật của người bệnh.

2.4. Thiết chẩn.
Còn gọi là bắt mạch, cầm mạch, coi mạch. Là một trong tứ chẩn, có ý nghĩa hết sức quan trọng. Vì nó là sự tiếp xúc trực tiếp của người thầy thuốc với bệnh nhân. Nó cho các thông tin khá khách quan qua việc chuyển tải giữa cảm giác mang tính thần kinh của người thầy thuốc với các loại hình mạch tượng của bệnh nhân. Do vậy nó là những thông tin đáng tin cậy nhất mà thầy thuốc luôn coi trọng. Mỗi loại mạch tượng phản ánh trạng thái hoạt động của tạng phủ nào đó.

2.4.1. Nguyên tắc của chẩn mạch:

2.4.1.1. Bộ vị để chẩn mạch:
Có 3 bộ vị để tiến hành chẩn mạch đó là: bộ thốn, bộ quan, bộ xích. Các bộ này nằm ngay trên rãnh cạnh đầu xương cổ tay. Nếu kể cả hai bên cổ tay thì có 6 bộ và được gọi là thốn, quan, xích trái và thốn, quan, xích phải. Bộ quan ở ngang với giữa đỉnh của đầu xương quay. Bộ thốn trên bộ quan độ 0,5 thốn. Bộ xích dưới bộ quan độ 0,5 thốn.

2.4.1.2. Mỗi bộ tương ứng với các tạng phủ nhất định trong cơ thể:
Bộ thốn trái là nơi thể hiện của tạng tâm, phủ tiểu tràng.
Bộ quan trái là nơi thể hiện của tạng can và phủ đởm.
Bộ xích trái là nơi thể hiện của thận âm và bàng quang.
Bộ thốn phải là nơi thể hiện của tạng phế và phủ đại tràng.
Bộ quan phải là nơi thể hiện của tỳ và vị.
Bộ xích phải là nơi thể hiện của thận dương và tam tiêu.
Có thể quan sát ở bảng 5.

Bảng 5. Phân bố các bộ vị trên thốn khẩu

Tay trái

Bộ vị

Tay phải

Tâm, tiểu tràng

Thốn

Phế, đại tràng

Can, đởm

Quan

Tỳ, vị

Thận âm, bàng quang

Xích

Thận dương, tam tiêu


2.4.2. Tư thế và trạng thái cần có khi chẩn mạch:
- Với bệnh nhân: bình tĩnh ngồi hoặc nằm, lần lượt để ngửa từng bàn tay trên gối mạch (gối mạch, là vật thể mềm độn bông để mạch chạy được đều).
- Với thầy thuốc: cũng cần ở trạng thái bình tĩnh, tinh thần khoẻ mạnh mới có thể tiến hành chẩn mạch cho bệnh nhân được.
Có thể dùng tay phải hoặc tay trái để chẩn mạch (tuỳ theo độ nhạy cảm của từng người) cần tránh dùng hai tay bắt mạch cho hai bệnh nhân một lúc. Tuy vậy cần nắm vững điều quy định cần thiết như đối với bệnh nhân lớn tuổi thì dùng 3 ngón tay (trỏ, giữa, nhẫn) bắt cùng một lúc. Song ngón trỏ bao giờ cũng đặt ở bộ thốn (Hình 25). Đối với trẻ nhỏ, có thể dùng một ngón trỏ để bắt từng bộ vị cũng được.

Hình 25. Khi bắt mạch, đặt đầu ngón tay trỏ lên bộ thốn của bệnh nhân
Hình 25. Khi bắt mạch, đặt đầu ngón tay trỏ lên bộ thốn của bệnh nhân

- Đo hơi thở: thầy thuốc dùng hơi thở của mình để làm chuẩn, làm thước đo. Một hơi thở được tính từ điểm bắt đầu một lần hít vào và thở ra bình thường.
- Nếu một hơi thở, mạch của bệnh nhân đến 4 lần gọi là mạch hoãn, mạch bình thường, mạch đẹp về tốc độ. Nếu ≥ 5 lần là mạch sác. Nếu ≤ 3 lần gọi là mạch trì. Mạch sác chỉ mức độ nhiệt của người bệnh. Mạch trì chỉ mức độ hàn của người bệnh.
- Mạch đi nổi trên mặt da gọi là mạch phù.
- Mạch đi chìm dưới mặt da gọi là mạch trầm.
- Mạch đi sát gân xương gọi là mạch phục.
Mạch phù sác chủ nhiệt, mạch trầm phục chủ hàn.

2.4.3. Tóm tắt các loại hình mạch:

2.4.3.1. Bốn loại mạch gốc:
+ Mạch phù: có thể 6 bộ đều phù hoặc từng bộ phù.
+ Mạch sác: có thể 6 bộ sác cũng có thể vài bộ sác.
+ Mạch trầm: có thể 6 bộ trầm hoặc vài bộ trầm.
+ Mạch phục: có thể 6 bộ phục hoặc vài bộ phục.

2.4.3.2. Mạch thất biểu (7 loại mạch ngoài):
- Mạch phù: phù có phù hoãn, phù hư, phù khâu, phù hồng, phù vi...
- Mạch khâu: mạch rỗng như lá hành. Biểu hiện của thiếu huyết.
- Mạch hoạt: mạch tròn như hạt châu lăn trên mâm. Mạch tượng trưng của đờm ẩm, của thai nghén.
- Mạch thực: tà nhiệt còn tích ở tam tiêu.
- Mạch huyền: mạch căng như sợi dây cung, cứng. Mạch của chứng cao huyết áp.
- Mạch khẩn: mạch có nhiều lần đập chằn chéo. Mạch của hàn tà xâm nhập phần biểu, bệnh cảm hàn.
- Mạch hồng: mạch thô và to. Bệnh dương nhiệt cường thịnh, cảm nhiệt, sốt cao.

2.4.3.3. Mạch bát lý (8 loại mạch trong):
- Mạch trầm: mạch trầm mà mềm, hoạt là bình thường.
- Mạch trì: có thể trầm trì, phù trì. Phù trì là hàn tà tại lý.
- Mạch hoãn: biểu hiện thần khí sung túc. Nếu phù mà hoãn là phong tà tại biểu. Trầm mà hoãn là tỳ vị hư nhược.
- Mạch sác: mạch nhỏ đi trì trệ sít sáp tựa như dao cạo nhẹ trên ống tre. Chủ về tinh dịch hư hao, nôn nghiêm trọng...
- Mạch phục: mạch nằm sát trong gân xương. Do hàn tà ngưng ở kinh lạc, do thương hàn biến chứng, tà khí uất kết.
- Mạch nhu: mạch phù nhỏ, vô lực, mềm nhược, mạch của khí huyết bị thương tổn. Phụ nữ sau khi đẻ thường xuất hiện mạch này.
- Mạch vi: mạch nhỏ, mềm, vô lực, mạch do dương khí suy kiệt hoặc khí huyết lưỡng hư.
- Mạch nhược: mạch trầm nhỏ mềm. Do dương khí suy kiệt, tinh huyết suy kiệt.

2.4.3.4. Mạch cửu đạo:
Gồm 9 loại mạch đặc biệt như: mạch trường, mạch đoản, mạch kết, mạch xúc, mạch hư, mạch đại, mạch lao, mạch động và mạch tế.

2.4.3.5. Mạch thất tuyệt:
Gồm 7 loại mạch tuyệt, bệnh nan giải nguy hiểm đến tính mạng. Đó là:
- Mạch tước trác → can tuyệt.
- Mạch ngu tưởng → tâm tuyệt.
-.Mạch ốc lậu → vị tuyệt.
- Mạch hà du → đại tràng tuyệt.
- Mạch đàn thạch → thận tuyệt.
- Mạch giải sách → tỳ tuyệt.
- Mạch phù phí mạch đùn ra không lặn vào → phế tuyệt.

2.4.3.6. Mạch phức hợp:
Ngoài các mạch kể trên còn một số các mạch khác rất phức tạp. Đó là những mạch ghép của nhiều loại mạch như: Mạch cách (mạch huyền mà khâu), Mạch khiên (mạch trầm, phục, thực, thô, trường huyền) → do can khí uất tích âm hư mất huyết …). Mạch tật (mạch rất sác) ≥ 10 đập trong một hơi thở.
Tóm lại có đến ≥ 36 loại hình mạch khác nhau. Mỗi loại hình đặc trưng cho nhiều triệu chứng của các bệnh. Cần phân biệt kỹ càng các mạch đó mới định ra được cái gốc của bệnh tật.
Khi đã xác định được đúng bệnh trên cơ sở tứ chẩn, người thầy thuốc tiến hành phối hợp các thông tin và đưa ra được quyết định bệnh của tạng phủ nào đó. Sau đó người ta tiến hành lập phương thuốc tương ứng.

2.4.4. Mối quan hệ giữa mạch và thuốc y học cổ truyền:
Vấn đề này cần được quan tâm đúng mức mới phát huy được tác dụng của thuốc cổ truyền. Mặt khác mối quan hệ này còn đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích hoặc xây dựng một phương thuốc y học cổ truyền.
Thật vậy, ta biết rằng mạch tượng của y học cổ truyền rất đa dạng, phức tạp và phong phú. Góp phần quan trọng trong chẩn trị. Nói phong phú về số loại hình mạch và chính xác vì nó có sự phân biệt rất tỉ mỉ. Mỗi loại hình mạch đặc trưng cho hoạt động hoặc chứng trạng bệnh tật của một tạng phủ hoặc một nhóm tạng phủ nhất định về một hoạt động sinh lý bệnh lý nào đó.
Tuy các loại hình mạch đa dạng như vậy, song tựu trung lại vẫn có thể phân ra 2 loại hình chính là: loại mạch thuộc âm và loại mạch thuộc dương.
Mạch thuộc dương: là những loại mạch thuộc về mạch thất biểu, mạch thuộc phù, có trương lực và cường độ lớn, có tốc độ nhanh (sác, khẩn...).
Mạch thuộc âm: là những loại mạch thuộc về bát lý, mạch thuộc trầm, phục, mạch đi sâu, mạch đi chậm về tốc độ (mạch trì), mạch có trương lực và cường độ nhỏ (mạch vi tế), mạch vô lực và thường một hơi thở mạch đếm < 4 lần.
Tuy nhiên trong thực tế, sự thể hiện của mạch tượng cũng tuân theo tính chất của âm dương. Đó là tính chất tương đối. Ví dụ: mạch thuộc âm (phục, trầm) song tốc độ lại nhanh (sác). Đó là trong âm có dương, đó là trường hợp nhiệt còn phục ở bên trong.
Và ngược lại, có khi mạch phù thuộc dương song lại nhỏ và vô lực. Đó là trong dương có âm, đó là trường hợp chân khí suy giảm âm huyết kém. Có thể quan sát sự thể hiện âm dương của mạch tượng qua bảng 4.

Bảng 4. Tính chất âm dương của một số loại hình mạch

Loại hình mạch

Âm

Dương

Đặc điểm chính

Mạch phù

 

+

Mạch nổi trên mặt da

Mạch hồng

 

+

Mạch phù, cuồn cuộn

Mạch sác

 

+

Tốc độ nhanh ≥ 5 lần trong 1 hơi thở

Mạch huyền

 

+

Mạch căng

Mạch trường

 

+

Mạch dài suốt và vượt khỏi 3 bộ

Mạch thực

 

+

Mạch rắn chắc

Mạch trầm

-

 

Mạch đi sâu dưới da

Mạch phục

-

 

Mạch đi sát trong xương

Mạch vi

-

 

Mạch nhỏ không rõ ràng

Mạch tế

-

 

Mạch nhỏ như sợi tơ, chìm sâu

Mạch nhược

-

 

Mạch chìm sâu, vô lực

Mạch sắc (âm)

-

 

Mạch đi sít sáp, lắc lư


- Để phát huy được tác dụng của thuốc cổ truyền, nguyên tắc chung phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản của phép “chính trị” của y học cổ truyền. Đó là, nếu mạch thuộc dương, thuộc chứng nhiệt phải dùng thuốc mang vị đắng, tính lương hàn. Nếu mạch thuộc âm, thuộc chứng hàn phải dùng thuốc mang vị cay, tính ôn, nhiệt. Mạch thuộc thực, dùng thuốc tả hạ, thuốc hạ khí, thuốc thanh nhiệt... Mạch thuộc hư, dùng thuốc mang tính bổ (bổ âm, bổ dương, bổ khí, bổ huyết). Tóm lại chiều hướng của mạch tượng luôn đối lập với chiều hướng của thuốc y học cổ truyền.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây  lá giấp ,  ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cá là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học  Ageratum conyzoides L. Thuộc họ  Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên. Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng s...

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.