Chương IV
BÁT CƯƠNG, BÁT PHÁP
I. BÁT CƯƠNG
1.1. Giới thiệu bát cương.
Bát cương là 8 cương mục lớn của y học cổ truyền khái quát hoá 8 trạng thái sinh lý, bệnh lý của cơ thể. Có nắm được bát cương mới có thể phân biệt được các bệnh chứng cụ thể; trên cơ sở đó mới phân tích, lập phương đúng và việc sử dụng thuốc y học cổ truyền mới có hiệu quả.
Tám cương mục đó là: âm, dương, hàn, nhiệt, hư, thực, biểu, lý. Như vậy âm dương là hai cương chính bao trùm lên tất cả 6 cương còn lại. Và dễ dàng thấy được 3 cương: hàn, hư, lý thuộc âm và 3 cương nhiệt, thực, biểu thuộc dương. Dĩ nhiên không loại trừ một trạng thái âm dương thác tạp (âm dương lẫn lộn). (Xem hình 23)
Hình 23. Sự thể hiện bát cương
Vấn đề âm dương đã được bàn nhiều ở phần thuyết âm dương. Do đó trong phần này chỉ đi sâu vào 6 cương còn lại.
1.2. Hàn.
Hàn là biểu hiện hội chứng hàn, chứng mà cơ thể biểu hiện rét nhiều, hoặc sốt có kèm theo rét run, chân tay thường giá lạnh, mặt tái nhợt, môi và niêm mạc miệng, mắt nhợt nhạt, rêu lưỡi thường trắng trơn, chất lưỡi nhợt, miệng không khát, tiểu tiện dài, trong, đại tiện lỏng, bụng đau thích chườm nóng, thích uống nước nóng, thích mặc ấm. Mạch thường trầm trì.
Trong trường hợp này phải dùng dương dược thuốc ôn trung khử hàn tức thuốc có tính ôn nhiệt. Mặc dù vậy cũng cần nhớ rằng “dùng thuốc nhiệt phải tránh nhiệt”.
1.3. Nhiệt.
Nhiệt là biểu hiện hội chứng nhiệt. Có thể biểu hiện có sốt cao, khi sốt không rét, có khi sốt rất cao mê sảng vật vã, mặt đỏ nhừ, môi đỏ nứt nẻ, mắt đỏ do sung huyết, miệng khát, tiểu tiện ngắn đỏ, đại tiện táo kết, rêu lưỡi vàng dày, chất lưỡi đỏ đôi khi phồng rộp, mạch hồng sắc… Tuy nhiên nhiều khi cơ thể không sốt song cũng được gọi là nhiệt nếu như có những biểu hiện phát ban, dị ứng ngứa mà nóng; hoặc háo khát; hoặc tiểu vàng đỏ, đại tiện bí kết v.v... Như vậy khái niệm nhiệt ở đây bao quát rộng hơn. Khi cơ thể mắc chứng trạng nhiệt, thuốc dùng phải là âm dược. Thuốc thanh nhiệt thuốc tân lương giải biểu, thuốc tính hàn lương. Tuy nhiên cũng cần nhớ rằng "dùng thuốc hàn phải tránh hàn".
Trong 2 cương này có một số điểm cần thật chú ý đó là 2 trường hợp khá phức tạp sau đây:
+ Chân nhiệt giả hàn (chính bệnh là nhiệt, song biểu hiện ra bằng một số triệu chứng lại như hàn):
Ví dụ: chân tay cũng lạnh, rêu lưỡi đen, mạch tế (thuộc hàn). Tuy chân tay lạnh song không thích sưởi ấm, không thích uống nước nóng, rêu lưỡi đen song chất lưỡi lại đỏ; mạch tế nhưng hữu lực (thuộc chứng nhiệt). Tất cả điều đó chứng tỏ rằng tà nhiệt còn ẩn náu ở bên trong. Do vậy cần phải xác định thật rõ nếu không sẽ dùng thuốc sai chiều. Trong trường hợp này phải dùng âm dược (thuốc hàn), đúng với nghĩa "nhiệt giả hàn chi". Nếu làm ngược lại thì bệnh không những không thuyên giảm mà còn trầm trọng hơn.
+ Chân hàn giả nhiệt (chính bệnh là hàn, song thể hiện ra bằng một số triệu chứng lại như nhiệt):
Ví dụ: có sốt miệng khát, rêu lưỡi vàng, diện mạch to, trong người phiền muộn, mặt đỏ hồng (thuộc chứng nhiệt). Song tuy có sốt, miệng khát nhưng lại muốn uống nước ấm, thích mặc ấm, sợ lạnh. Rêu lưỡi vàng nhưng chất lưỡi nhợt nhạt, diện mạch to song vô lực (thuộc chứng hàn). Tất cả điều đó nói lên rằng âm hàn còn đang thịnh ở bên trong. Trong trường hợp này phải dùng dương dược (thuốc dương). Đúng với nghĩa "hàn giả nhiệt chi". Nếu làm ngược lại bệnh sẽ nặng thêm.
Bởi vậy đứng trước người bệnh phải định ra hàn nhiệt rõ ràng là vì lẽ đó.
1.4. Hư.
Hư là biểu hiện chứng hư, chứng của bệnh lâu ngày, mạn tính, bệnh của khí huyết không đầy đủ (khí huyết hư) hoặc âm hư, dương hư, hoặc phủ tạng hư. Mỗi loại chứng hư, đều thể hiện ra các chứng của nó. Ví dụ biểu hư thì ra nhiều mồ hôi có thể tự hãn (tự ra mồ hôi), đạo hãn (mồ hôi trộm); tấu lý hở dễ mắc ngoại tà, da tái xanh, thô cần dùng thuốc liễm hãn... Huyết hư, da xanh tái nhợt, môi thâm, mắt trắng dã; cần dùng thuốc bổ huyết. Khí hư người mệt mỏi ngại lao động, ngại đi đứng, đoản hơi; cần dùng thuốc bổ khí. Nếu cả khí huyết lưỡng hư thì phải dùng kiêm cả hai loại. Nếu âm hư thì bên trong nóng cồn cào “âm hư nội nhiệt”; cần dùng thuốc bổ âm. Nếu dương hư thì bên ngoài da, chân tay lạnh “dương hư ngoại hàn”, cần dùng thuốc bổ dương. Nói chung với hư chứng thì luôn nghĩ tới phải dùng thuốc bổ. Tuy vậy cũng cần phải chú ý đến từng loại thuốc bổ cho từng bộ phận hư cho thích hợp.
1.5. Thực.
Chứng thực là chứng bệnh mới mắc, cấp tính, các triệu chứng còn đang rầm rộ. Thường biểu hiện như sốt cao, mặt đỏ, bụng căng đầy trướng tức sợ ấn, đại tiện táo kết; hoặc khí quản co thắt gây khó thở... Về nguyên tắc khi có chứng thực phải dùng thuốc tả, thuốc mang tính chất thanh nhiệt (nếu là cơ thể nhiệt), thuốc mang tính chất tả hạ (nếu là bệnh thực nhiệt ở tỳ vị), nhẹ thì dùng thuốc nhu nhuận như thảo quyết minh, vừng đen, nặng thì dùng thuốc công hạ như mang tiêu, đại hoàng...
Riêng ở hai cương hư thực về mặt điều trị cần phải quán triệt phương châm sau:
“Hư thì bổ, Thực thì tả”
Ý nghĩa này cần được vận dụng không những về phương diện dùng thuốc mà ngay cả phương diện châm cứu cũng cần được vận dụng (đã giới thiệu ở chương thuyết ngũ hành).
1.6. Biểu.
Biểu là chỉ biểu chứng, chứng bệnh còn ở phía ngoài, chỉ bệnh còn ở phần da, phần cơ nhục, những bệnh thuộc chứng biểu thường là bệnh cảm mạo (cảm mạo phong hàn, cảm mạo phong nhiệt); bệnh thường biểu hiện có sốt, có rét run (nếu cảm mạo phong hàn) có hoặc không có mồ hôi, đau đầu, chân tay tê mỏi đau nhức. Tùy theo từng nguyên nhân mà sử dụng thuốc cho hợp lý. Thuốc thường được sử dụng trong trường hợp này là tân ôn giải biểu; nếu là cảm mạo phong hàn là tân lương giải biểu; nếu là cảm mạo phong nhiệt. Biểu hư, dùng thuốc cố biểu, liễm hãn...
Ngoài ra một số bệnh ngoài da cũng mang tính chất ở biểu như mụn nhọt, ghẻ, lở, hắc lào... Nên dùng thuốc thanh nhiệt.
1.7. Lý.
Lý là chỉ chứng lý, chứng bệnh ở phía trong phủ tạng hoặc bệnh ở phía ngoài đã đi sâu vào kinh lạc, tạng phủ; gọi là chứng lý như “hàn nhập lý”; tức hàn đã vượt qua biểu vào sâu bên trong; hoặc nhiệt nhập lý. Nếu hàn tà nhập lý thì biểu hiện rét dữ dội, đau bụng nôn nhiều và tiết tả (ỉa chảy). Trong trường hợp này nên dùng thuốc hoá thấp, thuốc ôn trung khử hàn để trừ khử hàn tà đã nhập sâu vào cơ thể mà gây ra chứng trạng nói trên. Nếu nhiệt tà nhập lý, tức nhiệt tà nhập vào phần dinh, phần huyết biểu hiện sốt cao vật vã mê sảng, bất tỉnh, thần trí không ổn định, đôi khi phát cuồng. Trong trường hợp nhiệt nhập lý phải dùng thuốc thanh nhiệt tà hoả, thanh nhiệt lương huyết (thạch cao, tri mẫu, huyền sâm, chi tử, tê giác, sinh địa). Trong những chứng này nếu việc dùng thuốc không đúng sẽ dẫn đến nguy hiểm cho tính mạng. Ví dụ bệnh thuộc chứng lý nhiệt, lại dùng thuốc ôn nhiệt như quế nhục, can khương sẽ làm cho cơ thể sốt dữ dội thêm “nhiệt ngộ nhiệt tắc cuồng”.
* Chứng bán biểu bán lý: tạo thành do kết quả của một số nguyên nhân sau đây:
+ Do chính khí của cơ thể không đủ mạnh, mặt khác ngoại tà (hàn tà hoặc nhiệt tà) mạnh hơn. Sức đề kháng của cơ thể không đủ để thắng tà, khiến cho tà lưu lại ở một phần biểu một phần lý tạo ra chứng bán biểu, bán lý.
+ Do việc dùng thuốc không đúng phương, chiều hướng của thuốc không chống lại chiều hướng của bệnh mà ngược lại thuận chiều với chiều của bệnh. Ngoài ra cũng còn thêm lý do liều lượng thuốc không đủ mạnh, cách chế biến, bào chế vị thuốc không đúng (thời gian sao thuốc, sắc thuốc...) làm mất khí vị của thuốc. Do vậy ngoại tà có điều kiện lưu lại ở cả biểu và lý. Với chứng trạng này cơ thể thường mắc bệnh dai dẳng, thời gian bị bệnh kéo dài, triệu chứng bệnh thường thay đổi lúc sốt lúc rét (hàn nhiệt vãng lai). Vị thuốc thường được ứng dụng cho trường hợp này như thanh cao, sài hồ, hoàng cầm... Mặc dù vậy đối với các trường hợp cụ thể cần xem xét cẩn thận mới quyết định dùng loại thuốc gì cho thích hợp.
II. BÁT PHÁP
Tám phương pháp chính để chữa bệnh theo y học cổ truyền. Trong bát pháp ở đây chỉ giới thiệu các phương pháp dùng trong.
2.1. Phương pháp hãn.
Phương pháp làm cho ra mồ hôi chỉ dùng khi các bệnh cảm mạo, tấu lý bị vít lại. Trên cơ sở đó biểu không được giải, làm cho thân nhiệt tăng cao (sốt). Lúc này phải dùng thuốc phát hãn để khai mở tấu lý; đó là các thuốc tân ôn giải biểu hoặc tân lương giải biểu. Cần chú ý chỉ dùng phương pháp này khi biểu tà chưa giải, lý nhiệt còn đang thịnh. Không nên dùng cho những cơ thể hư nhược, ốm lâu ngày vì sẽ hao tổn tân dịch phụ nữ sau đẻ, trẻ con, sau khi mất máu, băng huyết, nục huyết, sốt cao mà mồ hôi ra nhiều.
Phương pháp hãn cũng cần hiểu cả hướng ngược lại là chỉ hãn, liễm hãn đối với các trường hợp tự hãn, đạo hãn do tàu lý thường xuyên khai mở.
2.2. Phương pháp thổ.
Đó là phương pháp làm cho nôn ra, dùng trong các trường hợp ăn vào không tiêu, bụng căng đầy, bội thực, ăn phải các chất độc, thuốc độc (hạt cà độc dược, trứng cóc...) làm cho bụng đau, có nguy cơ trúng độc nguy hiểm đến tính mạng. Có thể dùng các thuốc dễ gây nôn như lục phàn (sulfat sắt) hoặc dùng vật mềm kích thích họng cho nôn ra... khi cần thiết phải kết hợp với phương pháp rửa hút đường tiêu hoá của y học hiện đại.
2.3. Phương pháp tả hạ.
Là phương pháp cho đi tả, trong các trường hợp thực tích đại tràng thực nhiệt táo kết dẫn đến đau bụng. Có thể dùng phương pháp công hạ khi đại tràng thực nhiệt với các phương Đại thừa khí thang (đại hoàng, mang tiêu, hậu phác, chỉ thực), hoặc Tiểu thừa khí thang (phương đại thừa khí bỏ mang tiêu). Dùng khi đau bụng đầy trướng kèm theo táo kết. Hoặc dùng phương đại hoàng, mang tiêu, cam thảo để tăng nhu nhuận cho đại tràng... Trong trường hợp táo nhẹ cần dùng phương pháp nhuận hạ với các vị thuốc vừng đen, thảo quyết minh. Phương pháp nhuận hạ thích hợp cho các cơ thể yếu hoặc phụ nữ sau khi đẻ táo bón.
2.4. Phương pháp hoà (hoà giải, hoà hoãn).
Phương pháp này dựa trên sự điều hoà âm dương, điều hoà ngũ tạng, lục phủ trong cơ thể. Ví dụ âm hư sinh nội nhiệt thì dùng thuốc bổ âm để bồi bổ chân âm nuôi dưỡng phần âm. Hoặc dương hư gây ngoại hàn phải dùng thuốc bổ dương để nuôi dưỡng chân dương làm cho chân dương đủ mạnh … Cũng có thể dùng trong các chứng bán biểu, bán lý, hoặc các bệnh gây ra do sự mất điều hòa khí huyết.
2.5. Phương pháp ôn.
Phương pháp làm ấm cơ thể, dùng các vị thuốc có vị cay tính ôn nhiệt để trừ khử hàn tà; đó là các loại thuốc Tân ôn giải biểu, hoặc Ôn trung khử hàn. Hồi dương cứu nghịch như nhục quế, can khương, phụ tử, đại hồi.
2.6. Phương pháp thanh.
Phương pháp thanh trừ nhiệt độc ra khỏi cơ thể. Khi cơ thể bị sốt cao hoặc huyết nhiệt sinh mụn nhọt sang lở, dị ứng, ngứa. Tuỳ theo cơ thể bị nhiệt theo hình thức nào thì dùng một trong 6 loại thuốc thanh nhiệt cho hợp lý.
Ví dụ bị trúng thử (say nắng nóng) dùng thuốc thanh nhiệt giải thử (rau má, cỏ nhọ nồi, lá đậu ván, rễ sắn dây tươi…). Sốt cao mê sảng do tà nhiệt nhập lý, dùng thuốc thanh nhiệt giải độc như thạch cao, huyền sâm, chi tử… Dị ứng mụn nhọt dùng thuốc thanh nhiệt giải độc như liên kiều, kim ngân, bồ công anh. Huyết nhiệt gây nục huyết, trường phong hạ huyết hoặc sốt kéo dài dùng thuốc thanh nhiệt lương huyết như sinh địa, địa cốt bì, mẫu đơn bì… Các bệnh mang tính thấp nhiệt thì dùng thuốc thanh nhiệt táo thấp như hoàng liên, hoàng bá, hoàng cầm…
2.7. Phương pháp tiêu.
Chủ yếu nói tới phương pháp tiêu đạo, khi cơ thể tiêu hoá không tốt (tiêu hoá bất chấn, thường đầy bụng, sôi bụng, ăn uống không ngon miệng). Dùng các vị thuốc tiêu đạo, kích thích tiêu hoá như mạch nha, sơn tra, thần khúc kết hợp các thuốc kiện tỳ (bạch truật, bạch linh, hoàng kỳ).
2.8. Phương pháp bổ.
Phương pháp này dùng trong các trường hợp cơ thể suy nhược, yếu mệt, ốm lâu ngày hoặc yếu từng phủ tạng. Dùng thuốc bổ huyết khi huyết hư, huyết thiếu người mệt mỏi, xanh xao, gầy còm. Dùng thuốc bổ khí khi cơ thể mệt mỏi đoản khí, chân tay rã rời. Dùng thuốc bổ dương khi dương hư: chân lạnh, đau lưng, mỏi gối, liệt dương, di tinh... Hoặc thuốc bổ âm khi âm huyết suy kiệt, người khô héo, mắt khô sáp, quầng mắt, hoa mắt chóng mặt. Ngày nay do các phương pháp chữa bệnh phong phú người ta không chỉ giới hạn trong Bát pháp mà chia các phương pháp nói trên ra thành nhiều phương pháp khác.
Ví dụ: phương pháp giải biểu, lý khí (hành khí, giáng khí, điều hoà khí cơ), lý huyết (hoạt huyết), phương pháp khử thấp, ôn lý, phương pháp hoá đờm, chỉ ho, bình suyễn, phương pháp tắt phong.
2.9. Phương pháp trị bên ngoài.
2.9.1. Phương pháp xông:
Xông là phương pháp độc đáo của y học cổ truyền Việt Nam: phương pháp đơn giản song cho hiệu quả cao đối với một số bệnh ngoại cảm (phong hàn, phong nhiệt, phong thấp). Người ta dùng những lá có mùi thơm của tinh dầu như lá sả, cam, hương nhu, bạc hà, cúc tần hoặc lá mang tính chất giải nhiệt như lá tre, ruối, khoai lang… đun sôi 5 - 10 phút.
* Xông toàn bộ: tiến hành xông bằng cách đặt nồi lá xông phía trước chỗ bệnh nhân ngồi trùm chăn kín, mở nắp nồi xông. Thời gian kéo dài độ 10 - 20 phút, thỉnh thoảng đảo lá xông. Hơi nước cùng hơi tinh dầu bão hoà kích thích khai mở tấu lý, phát hãn giải biểu.
Sau khi xông cần lau hết mồ hôi, đồng thời uống độ 50 - 100 ml nước lá xông để tăng áp lực thẩm thấu, tăng giải biểu, phát hãn và lợi niệu để giải nhiệt và bài xuất tà độc ra khỏi cơ thể. Các thành phần nhựa trong lá khoai lang, ruối… tăng nhu nhuận của đại tràng góp phần thải nhiệt theo đường tiêu hoá. Như vậy rõ ràng phương pháp xông sẽ giải nhiệt cơ thể theo 3 đường: da (tấu lý), tiểu, đại tiện.
Có nhiều cách xông, tuỳ theo từng bệnh và vị trí bị bệnh.
* Xông cục bộ:
Xông đau đầu (đau gáy, trán, 2 bên): nung một viên gạch nóng già, đặt lên trên mặt viên gạch lớp lá ngải cứu tươi hoặc cúc tần, hương nhu… Rưới lên một cốc rượu (50 ml). Nhẹ nhàng đặt phía đau của đầu lên trên (thận trọng tránh bỏng). Trùm một khăn vuông kín đầu và viên gạch. Sau khi rượu rưới đều lên viên gạch nóng, hơi sẽ bốc lên qua lớp lá thơm cộng với sức nóng vừa phải sẽ kích thích lên da đầu làm phát hãn và giảm đau đầu (phương pháp này rất hiệu quả ngay cả với đau đầu do viêm xoang).
+ Xông đau khớp từ gối trở xuống, hoặc tê buồn chân: đào một hố sâu, có kích thước bằng chiều dài của đoạn từ gối đến bàn chân hoặc dung một thùng sắt, xô tôn… có kích thước nói trên. Cũng đặt một viên gạch nung nóng già như trên xuống đáy hố, đáy thùng … đặt lên trên một lớp lá ngải cứu, lá và dây chìa vôi (bạch phấn đằng), lá xoan chồi (lá xoan non mọc từ gốc cây hoặc đoạn cành đã bị chặt), cành xương rồng non đã bỏ gai. Tất cả các thứ dược liệu trên nên giã giập rồi trộn đều, sau giải đều lên mặt viên gạch đã nung. Rưới lên trên lớp lá đó độ 100ml đồng tiện hoặc rượu... Đặt nhẹ nhàng hai bàn chân lên, xông hơi nóng bốc lên, cần đậy kín từ gối. Thời gian xông 30 phút.
+ Xông do trĩ, lòi dom: cho thuốc xông vào nồi đun (thuốc thường là lá nhân trần, hoặc lá hẹ, lá giấp cá, lá mùi...), bịt miệng nồi lá bằng lá chuối, chọc một lỗ nhỏ để xông vào chỗ trĩ. Cần điều chỉnh để tránh bị nóng quá.
Ngoài ra còn dùng nhiều cách xông khác như xông khi đau trong tai (tai có mụn bẹn trong) (xông có sáp ong), xông khi răng sâu, đau răng (xông với bột hạt cà độc dược = xông khói). Hạt cà độc dược có độc nên chú ý lượng bột dùng vừa đủ.
2.9.2. Phương pháp đánh gió (đánh cảm, bắt gió):
Khi bị cảm nhiệt, cảm nắng có thể đánh gió bằng nhiều cách, chà xát nhẹ lên da toàn thân một số dược liệu sau: lá trầu không tươi giã nát bọc trong miếng gạc có thấm rượu nóng, chà xát mạnh hơn ở vùng gáy (đặc biệt huyệt phong phủ và dọc sống lưng, 2 lòng bàn tay và chân). Hoặc dùng củ gừng (10 - 15g), giã nát, xào nóng, cho vào ít rượu bọc gạc mềm rồi làm như trên. Có khi dùng tóc rối với dầu hoả, hoặc dùng lòng trắng trứng gà đã luộc với đồng tiền bằng bạc v.v.. Cũng có khi dùng dầu cù là xoa trên da rồi dùng đồng xu, đồng bạc cào nhẹ trên da v.v..
2.9.3. Phương pháp cứu:
Có thể tiến hành cứu trực tiếp bằng điếu ngải cứu (chế từ bột lá ngải cứu) vào các huyệt, các vùng bị đau (a thị huyệt). Hoặc cứu gián tiếp (đã giới thiệu ở phần trên) (xem hình 24a, 24b).
2.9.4. Phương pháp tắm rửa:
Dùng lá tươi vò nát pha thêm nước lã sạch hoặc nước lá đun sôi để nguội để tắm cho trẻ con vào mùa hè như lá đào, lá hòe... để tránh rôm sảy, mụn nhọt; lá và cành hoa mùi, tắm vào mùa đông... Hoặc nấu nước lá xà cừ, giã lá ba chạc tắm khi ngứa, ghẻ; lá bạc hà khi có vết thương; lá trắc bách, hương nhu, khi tóc bị rụng nhiều...
2.9.5. Phương pháp bó đắp:
Thường dùng phương pháp này khi bị chấn thương, đau cơ, đau xương. Dược liệu có thể dùng dạng tươi giã nát rồi bó đắp như lá bưởi bung, vỏ cây gạo trộn với giấm, bóp lá láng nóng v.v... Cũng có thể dùng các bột khô tán mịn của các dược liệu quế, hồi, đinh hương …
Trích nguồn từ sách: "DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN"
của TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI,
Bộ môn DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN, NXB Y HỌC
Nhận xét
Đăng nhận xét