Chuyển đến nội dung chính

DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN - Chương V - PHÉP TẮC TRỊ BỆNH THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN

DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN - Chương V - PHÉP TẮC TRỊ BỆNH THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN

Chương V
PHÉP TẮC TRỊ BỆNH THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN


I. CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG CHẨN ĐOÁN BỆNH
Thông qua tứ chẩn (vọng, văn, vấn, thiết), xác định nguyên nhân gây bệnh (lục tà, thất tình, nội thương, ngoại cảm...), xác định vị trí của bệnh (tạng phủ, kinh lạc, biểu lý...), xác định tình trạng của bệnh (cấp, hoãn). Để chẩn đoán chính xác, cần dựa theo cơ sở lý luận sau:

1.1. Chẩn đoán bệnh trên cơ sở học thuyết âm dương.
Xác định tình trạng bệnh thuộc âm hay dương, hàn hay nhiệt. Các căn cứ để xác định gồm:
- Nguyên nhân gây bệnh: có thể là âm tà (như hàn thấp) hoặc dương tà (như phong, thử, táo, hoả). Thông thường thì nhiều tà khí đồng thời xâm phạm vào cơ thể gây nên bệnh.
Ví dụ: 
Phong nhiệt thuộc dương
Phong hàn thuộc âm
Thấp nhiệt thuộc dương, hàn thấp thuộc âm...
- Triệu chứng bệnh: các triệu chứng có thể thuộc dương hoặc âm. Thông thường, các triệu chứng bệnh là biểu hiện của nguyên nhân gây bệnh.
Ví dụ: phong hàn phạm biểu gây sốt rét, sợ gió lạnh. Thấp nhiệt gây sốt nóng.
Trong một số trường hợp thì triệu chứng bệnh không cùng xu hướng của nguyên nhân gây bệnh.
Ví dụ: chân hàn giả nhiệt thì triệu chứng bệnh thuộc nhiệt, nguyên nhân bệnh thuộc hàn.
Chân nhiệt giả hàn thì triệu chứng bệnh là hàn, nguyên nhân bệnh là nhiệt.
- Quy luật phát sinh bệnh:
+ Bệnh do tà khí nào gây nên thì bệnh nhân thường sợ khí đó hoặc gặp khí đó thì bệnh tăng.
Bệnh do phong tà: người bệnh sợ gió, khi gặp gió thì bệnh tăng.
Bệnh do nhiệt tà: người bệnh sợ nóng, khi gặp nóng thì bệnh tăng.
Bệnh do hàn tà: người bệnh sợ lạnh, khi gặp lạnh thì bệnh tăng.
Bệnh do thấp tà: người bệnh sợ nước, khi gặp nước khí hậu ẩm thì bệnh tăng
Bệnh do táo tà: người bệnh sợ thời tiết khô, khi gặp thời tiết khô thì bệnh tăng.
Ví dụ: phong hàn phạm biểu thì bệnh tăng khi gặp gió lạnh, người bệnh sợ gió, sợ lạnh.
+ Quy luật phát sinh bệnh theo thời tiết khí hậu: thời tiết các mùa khác nhau, khí hậu khác nhau sẽ tác động trực tiếp đến người bệnh.
Mùa đông chủ khí hàn, thường phát sinh chứng bệnh hàn
Mùa thu chủ khí táo, thường phát sinh chứng bệnh táo
Mùa hạ chủ khí nhiệt, thường phát sinh chứng bệnh nhiệt
Mùa xuân chủ khí thấp, thường phát sinh chứng bệnh thấp
Ví dụ: mụn nhọt (nhiệt độc) thường sinh vào mùa hè.
Lãnh táo thường sinh vào mùa đông, lạnh.
Nhiệt táo thường sinh vào mùa hè, nóng.
+ Quy luật phát sinh bệnh theo thời điểm:
Trong năm, ở thời điểm khác nhau, sự phát sinh bệnh cũng khác nhau. Trong 1 ngày, thời điểm khác nhau thì quy luật sinh bệnh cũng khác nhau.
Ví dụ: tỳ thận dương hư gây tiết tả về sáng sớm (ngũ canh tả).
Hàn chẩn (dị ứng thể hàn) thường phát sinh hoặc tăng vào sáng sớm.
Nhiệt chẩn (dị ứng thể nhiệt) thường phát sinh hoặc tăng từ buổi trưa đến chiều.
Quy luật sinh bệnh theo thời tiết, thời điểm trong năm, trong ngày thường biểu hiện rõ ở các bệnh mạn tính. Dựa vào các quy luật này, có thể xác định được thể bệnh hàn hay nhiệt.

1.2. Chẩn đoán bệnh dựa trên cơ sở học thuyết tạng tượng (tạng phủ).
Xác định bệnh ở tạng phủ nào hoặc do tạng phủ nào gây ra bệnh dựa trên chức năng tạng phủ.
Ví dụ:
Đau mắt đỏ do can nhiệt.
Tai ù, tai điếc do thận hư.
Mất ngủ do bệnh ở tạng tâm.

1.3. Chẩn đoán bệnh dựa trên cơ sở học thuyết kinh lạc.
Xác định bệnh thuộc đường kinh nào, mối quan hệ đường kinh với các tạng phủ tương ứng với tứ chi, gân xương và các khiếu.
Ví dụ:
Đau nửa đầu thuộc đởm (đường kinh đởm đi qua).
Đau đỉnh đầu thuộc can (đường kinh can đi qua).
Đau sau gáy thuộc bàng quang (đường kinh bàng quang đi qua).

1.4. Chẩn đoán bệnh xác định tình trạng "cấp-hoãn"
Dựa vào triệu chứng lâm sàng để xác định:
- Chứng bệnh cấp: là thực chứng, triệu chứng dữ dội, tiến triển nhanh, diễn biến phức tạp.
Ví dụ: tiêu chảy cấp tính thể nhiệt (thấp nhiệt) có các triệu chứng: đau bụng dữ dội, đại tiện nhiều lần (có thể gây mất nước), phân lỏng, sống, sốt cao (sốt nóng, mồ hôi nhiều, khát nước), có thể xuất huyết đường ruột.
- Chứng bệnh hoãn: thường là hư chứng (mạn tính). Triệu chứng bệnh nhẹ nhàng, tiến triển chậm, diễn biến từ từ, không phức tạp.
Ví dụ: tiêu chảy mạn do tỳ dương hư, đau bụng âm ỉ hoặc không, không sốt, người lạnh, đại tiện ít, phân lỏng nát.

1.5. Chẩn đoán bệnh xác định tình trạng "tiêu-bản".
Dựa vào triệu chứng lâm sàng xác định:
- Tiêu (ngọn): xét về nhiều mặt như: nguyên nhân và triệu chứng thì tiêu là triệu chứng bệnh. Xét về vị trí bệnh thì tiêu ở bên ngoài. Xét về thời điểm thì tiêu phát sinh sau bản.
Triệu chứng bệnh thường là đa dạng phong phú, có thể diễn biến đồng thời hoặc không đồng thời.
- Bản (gốc): xét các mặt như “tiêu”, thì bản là nguyên nhân gây bệnh, ở trong, sinh ra trước tiêu.
Nguyên nhân có thể là do 1 nguyên nhân (tà khí: phong, hàn, thử, thấp, táo, hoả). Thường gặp là đồng thời nhiều nguyên nhân gây bệnh (phong hàn, phong hàn thấp, thấp nhiệt) có thể nội thương hoặc ngoại cảm hoặc đồng thời cả hai.
Tóm lại, dựa trên 5 cơ sở trên đây, xác định bệnh theo bát cương: âm - dương, hàn - nhiệt, hư - thực, biểu - lý. Trên cơ sở bát cương, xác định phương pháp điều trị phù hợp.

II. NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH

2.1. Bát pháp (xem mục “bát pháp”)
- Từ các triệu chứng, xác định bệnh theo bát cương, theo tình trạng bệnh (tiêu - bản, cấp - hoãn), xu hướng phát triển bệnh (thăng - giáng, phù - trầm), vị trí của bệnh (biểu - bán biểu bán lý - lý, tam tiêu...).
Chọn phương pháp điều trị phù hợp: hãn pháp, thổ pháp, hạ pháp, hòa pháp, ôn pháp, thanh pháp, tiêu pháp và bổ pháp.
Ví dụ:
Phong hàn phạm biểu, điều trị bằng hãn pháp.
Bệnh bán biểu bán lý, điều trị bằng hòa pháp.
Bệnh thuộc nhiệt, điều trị bằng thanh pháp.
Bệnh thuộc hàn, điều trị bằng ôn pháp.

2.2. Chính trị - phản trị
- Chính trị: là phương pháp dùng thuốc âm (âm dược) để trị chứng bệnh dương (dương chứng), dùng dương dược để trị chứng bệnh âm (âm chứng).
Ví dụ:
Ho do phế hàn thì trị bằng thuốc ôn phế chỉ ho.
Ho do phế nhiệt thì trị bằng thuốc thanh phế chỉ ho.
Âm hư thì trị bằng thuốc bổ âm.
Dương hư thì trị bằng thuốc bổ dương.
- Phản trị (tòng trị): là phương pháp dùng âm dược để trị âm chứng, dùng dương dược để trị dương chứng. Phản trị được ứng dụng trong các chứng bệnh “chân giả” (chân: gốc, giả: ngọn). Thực chất của phản trị, tương tự như chính trị: dùng dương dược trị âm bệnh, dùng âm dược trị dương bệnh (nguyên nhân gây bệnh). Triệu chứng bệnh là giả.
+ Chân hàn giả nhiệt: gốc bệnh là hàn, triệu chứng bệnh là nhiệt. Điều trị bằng dương dược.
Ví dụ: âm thịnh cách dương gây ra đầu nóng (nhiệt), chân lạnh, người sợ lạnh, choáng váng, mệt mỏi, chán ăn, đầy bụng... Gốc bệnh là hàn, đầu nóng là giả nhiệt. Có thể trị bằng phương thuốc bát vị quế phụ gia giảm.
+ Chân nhiệt giả hàn: gốc bệnh là nhiệt, triệu chứng bệnh là hàn. Điều trị bằng âm dược.
Ví dụ: lý nhiệt biểu hàn gây chứng nội nhiệt, người gầy da khô, háo khát nước, táo bón, da tái sợ lạnh. Gốc của bệnh là nhiệt, sợ lạnh là chứng giả hàn. Có thể trị bằng phương thuốc lục vị địa hoàng gia giảm.

2.3. Bệnh hư thì trị bằng thuốc bổ, bệnh thực thì trị bằng thuốc tả “Hư thì bổ, thực thì tả”

2.3.1. Bệnh hư:
Là bệnh biểu hiện sự suy yếu của cơ thể hoặc từng tạng phủ, từng bộ phận của cơ thể. Bệnh kéo dài, diễn biến từ từ, không dữ dội. Bệnh hư chia thành 2 loại:
- Bệnh toàn thân: bệnh sinh ra do cơ thể suy nhược kéo dài: thuỷ hư, hoả hư, âm hư, dương hư, khí hư, huyết hư.
Phương pháp điều trị:
+ Khí hư thì trị bằng thuốc bổ khí
Ví dụ: phương: tứ quân tử, quy tỳ…
+ Huyết hư thì trị bằng thuốc bổ huyết
Ví dụ: phương: tứ vật thang, hà sa đại tạo hoàn…
+ Khí huyết lưỡng hư thì trị bằng thuốc bổ khí huyết
Ví dụ: phương: bát trân, thập toàn đại bổ
+ Âm hư thì trị bằng thuốc bổ âm
Ví dụ: phương: lục vị địa hoàng, bát tiên thang
+ Dương hư thì trị bằng thuốc bổ dương
Ví dụ: phương: bát vị quế phụ.
- Bệnh tạng phủ hư thì trị bằng các thuốc bổ trực tiếp các tạng phủ đó.
Ví dụ:
+ Tâm tỳ hư thì trị bằng phương quy tỳ.
+ Phế âm hư thì trị bằng phương bách hợp cố kim thang.
+ Phế thận âm hư thì trị bằng phương bát tiên trường thọ thang.
+ Tâm âm hư thì trị bằng phương thiên vương bổ tâm đan.
- Bệnh ở các bộ phận khác của cơ thể hư thì chọn phương thuốc trị trực tiếp các bộ phận đó.
Ví dụ: biểu hư tự hãn thì trị bằng thuốc cố biểu liễm hãn. Âm hư đạo hãn thì trị bằng thuốc bổ âm liễm hãn.
Chú ý:
- Bệnh hư gồm hư hàn và hư nhiệt. Bệnh hư hàn thì dùng thuốc ôn bổ. Bệnh hư nhiệt thì dùng âm dược
- Phân biệt tình trạng, mức độ của bệnh để dùng thuốc phù hợp.
Bệnh hư nhưng nhẹ thì trị bằng thuốc bổ khí huyết (tiểu bệnh trị khí huyết).
Bệnh hư nhưng nặng, kéo dài thì trị bằng thuốc bổ thuỷ hoả (đại bệnh trị thuỷ hoả).
- Phép bổ - tả theo học thuyết ngũ hành. Vận dụng quy luật tương sinh, tương khắc của ngũ hành: “con hư bổ mẹ, mẹ thực tả con”.
Tạng bị bệnh thuộc hư thì dùng thuốc bổ tạng “sinh” ra nó.
Ví dụ: phế hư thì trị bằng thuốc bổ tỳ, vì tỳ thuộc hành thổ, phế thuộc hành kim, mà kim sinh thổ.
Tạng bị bệnh thuộc thực chứng thì dùng thuốc tả tạng mà nó sinh ra.
Ví dụ: phế thực thì trị bằng thuốc tả thận, vì phế thuộc hành kim, thận thuộc hành thuỷ, mà kim sinh thuỷ.

2.3.2. Bệnh thực:
Thường là bệnh cấp tính hoặc đợt cấp tính của bệnh mạn tính. Bệnh diễn biến nhanh, phức tạp, dữ dội.
- Bệnh chứng toàn thân: là chứng bệnh gây ảnh hưởng đến toàn cơ thể như sốt cao, mất nước do tiêu chảy, mất máu…
Phương pháp điều trị: phối hợp trị triệu chứng với nguyên nhân.
Ví dụ: hoàng đản do can đởm thấp nhiệt, trị bằng phương long đởm tả can thang.
- Bệnh chứng tạng phủ: là bệnh có nguồn gốc từ tạng phủ hoặc các tạng phủ bị bệnh (theo chức năng tạng phủ của học thuyết tạng phủ).
Phương pháp điều trị: phối hợp thuốc trị trực tiếp các tạng phủ bị bệnh với các loại thuốc khác một cách hợp lý.
Ví dụ:
Tiêu chảy thực hàn thì trị bằng thuốc ôn lý trừ hàn, hành khí, chỉ tả.
Tâm nhiệt gây chảy máu thì trị bằng thuốc thanh tâm nhiệt.
Bàng quang thấp nhiệt (viêm bàng quang cấp) thì trị bằng thuốc thanh nhiệt bàng quang, lợi thấp.
- Bệnh chứng ở các bộ phận khác của cơ thể thì có thể trị trực tiếp vào nơi bị bệnh.
Ví dụ:
Biểu hàn (phong hàn phạm biểu) thì trị bằng thuốc phát tán phong hàn.
Huyết nhiệt gây mụn nhọt, mẩn ngứa thì trị bằng thuốc thanh nhiệt lương huyết.

2.4. Bệnh hoãn thì trị bản, bệnh cấp thì trị tiêu.
- Bệnh hoãn là bệnh có diễn biến từ từ, không dữ dội, thường là bệnh mới phát hoặc bệnh hư (mạn tính) thì chữa nguyên nhân là chính (bản), phối hợp với thuốc trị triệu chứng (tiêu).
Ví dụ:
Tỳ hư tiết tả thì trị bằng thuốc kiện tỳ là chính, phối hợp với thuốc ôn lý trừ hàn, hành khí, chỉ tả.
Âm hư hoả vượng thì trị bằng thuốc bổ âm là chính, phối hợp với thuốc giáng hoả.
- Bệnh cấp có triệu chứng dữ dội, diễn biến nhanh thì trị triệu chứng (tiêu) là chính, phối hợp với thuốc trị nguyên nhân.
Ví dụ: sốt cao, sốt nóng do hoả độc thì trị chứng sốt cao (bạch hổ thang), phối hợp với thuốc thanh nhiệt độc.

2.5. Bệnh thể đi xuống thì trị bằng thuốc thăng, bệnh thể đi lên thì trị bằng thuốc giáng.
Ví dụ:
Các chứng bệnh sa giáng như sa dạ dày, sa tử cung, sa trực tràng… thì dùng các thuốc thăng như phương bổ trung ích khí.
Bệnh đau đầu do can hoả vượng thì trị bằng thuốc bình can giáng hoả, tiềm dương.
Chú ý:
- Trên thực tế thì biểu hiện chứng bệnh thường:
+ Do nhiều nguyên nhân đồng thời gây bệnh.
+ Nhiều tạng phủ đồng thời bị bệnh.
+ Tình trạng cấp - hoãn đồng thời: cơ thể suy nhược (hư chứng) kèm bệnh tiết tả… cơ thể càng suy nhược thì càng dễ bị mắc bệnh.
+ Thể hư - thực lẫn lộn: cơ thể hư có nhiều cơ hội mắc bệnh thực (cấp tính) hoặc đợt cấp tính của căn bệnh mạn tính.
- Phương pháp điều trị: vận dụng hợp lý để dùng thuốc hợp lý.
+ Cấp trị tiêu: bệnh cấp tính trị triệu chứng là chính, có kết hợp trị nguyên nhân.
+ Hoãn trị bản: bệnh hoãn (mạn tính) trị nguyên nhân là chính, kết hợp với trị triệu chứng. + Tiêu bản đồng trị: phương pháp điều trị kết hợp giữa trị tiêu và trị bản, hoặc “công bổ kiêm trị”.

Trích nguồn từ sách: "DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN"
của TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI, 
Bộ môn DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN, NXB Y HỌC



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây  lá giấp ,  ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cá là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học  Ageratum conyzoides L. Thuộc họ  Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên. Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng s...

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.